Nông - Lâm - Ngư nghiệp [ Đăng ngày (14/04/2020) ]
Ảnh hưởng của giá thể trồng đến sinh trưởng và năng suất của giống dâu tây Newzealand trồng trong nhà plastic tại Đà Lạt
Dâu tây là một trong những cây trồng đặc sản, mang lại thu nhập cao cho nông dân Đà Lạt. Tuy nhiên, do áp lực của các loại sâu bệnh, đặc biệt là bệnh thối đen rễ gây chết hàng loạt nên diện tích dâu tây giảm đáng kể.

Ảnh minh họa

Theo số liệu thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Lâm Đồng, diện tích dâu tây giảm đến mức thấp nhất vào năm 2012, chỉ đạt khoảng 70 ha. Một số nghiên cứu cho rằng trồng cây trên môi trường không đất trong nhà kính như một thay thế cho lĩnh vực sản xuất truyền thống cho các loại rau có giá trị cao (Schröder, 1997). Theo Cecatto và cộng viên (2013), trồng cây trên môi trường không đất là phương pháp sản xuất khắc phục các trở ngại từ môi trường trồng bởi vì nó làm giảm đáng kể việc sử dụng thuốc trừ sâu và trừ nấm hóa học. Môi trường trồng không đất dễ dàng xử lý hơn và có thể cung cấp môi trường trồng tốt hơn so với trồng trên đất (Bilderback et al., 2005; Mastouri et al., 2005; Olle et al., 2012). Họ cũng xác nhận rằng hiện nay, nhiều vật liệu đã được sử dụng làm giá thể trồng do có khả năng giữ ẩm, độ thoáng khí, thoát nước hoặc thấm hút và khả năng tái sử dụng. Vỏ trấu có đặc tính nhẹ, xốp, kích thước hạt lớn, thoát nước tốt đã được Evan 2007 sử dụng để cải thiện sự thoát nước và thoáng khí của giá thể. Papafotiou, Chronopoulos và cộng tác viên (2001) đã nghiên cứu sử dụng vỏ trấu làm giá thể trồng cây cảnh. Evans và Gachukia (2004), Calderón và Cevallos (2001) báo cáo rằng vỏ trấu thường được sử dụng cho trồng trọt thủy canh ở Nam Mỹ. Mụn xơ dừa là phế phẩm trong quá trình sản xuất chỉ xơ dừa, trong quá trình đập, tước chỉ xơ dừa, mụn dừa bung ra. Handreck (1993) đã nghiên cứu tính chất của mụn xơ dừa và cách sử dụng mụn xơ dừa làm giá thể trồng chậu. Abad và cộng tác viên (2002) thu thập 13 mẫu mụn xơ dừa từ châu Á, châu Mỹ và châu Phi để đánh giá, lựa chọn thay thế cho than bùn. Tehranifar, Poostchi, Arooei và Nematti (2006), Prasad (1996) đã nghiên cứu sử dụng mụn xơ dừa làm giá thể trồng cây.

Hai phụ phẩm của công nghiệp chế biến dừa và chế biến gạo là mụn xơ dừa và vỏ trấu được thải ra môi trường rất lớn thậm trí làm ô nhiễm môi trường. Việc nghiên cứu sử dụng hai nguồn phụ phẩm nông nghiệp này phối trộn với nhau để làm giá thể trồng
dâu tây vừa giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường, vừa kiểm soát được dịch chết hàng loat dâu tây trên đồng ruộng góp phần mở rộng và phục hòi lại diện tích trồng dâu tây tại Đà Lạt.

Nghiên cứu do Nhóm tác giả gồm: Cao Thị Làn, Nguyễn Văn Kết  (Trường Đại học Đà Lạt), Ngô Quang Vinh (Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam) thời gian thực hiện thí nghiệm: từ tháng 7 năm 2014 đến tháng 12 năm 2015 trong nhà kính tại trường Đại học Đà Lạt.

Nhóm nghiên cứu thực hiện trên Cây dâu tây Newzealand được trồng trong chậu nhựa mềm, màu đen, kích thước 19˟ 17,5˟ 16,5 cm.

Các loại vật liệu vỏ trấu, than vỏ trấu và mụn xơ dừa được sử dụng riêng lẻ hoặc phối trộn theo các tỷ lệ khác nhau được sử dụng làm giá thể trồng. Trước khi phối trộn làm giá thể trồng cả mụn xơ dừa và than vỏ trấu được rửa sạch bằng nước để đảm bảo không còn tannin, muối trong mụn xơ dừa và tro (chất khoáng) trong than vỏ trấu và đảm bảo pH = 5,8 - 6,5 và EC = 0,1 - 0,5 dS/m. Dinh dưỡng được cung cấp cho cây theo công thức dinh dưỡng của Lieten (1999) với các thành phần dinh dưỡng như sau: 168 N, 48 P; 136,5 K; 180 Ca; 28.8 Mg và 38,8 S; 1,12 Fe; 0,048 Cu; 0,65 Zn; 1.1 Mn và 0,79 B. EC = 1,4 và pH 6,0 - 6,5.

Nhóm nghiên cứu sử dụng Hai loại vật liệu là vỏ trấu (VT), than vỏ trấu (TH) được phối trộn riêng rẽ với mụn xơ dừa (XD) theo các tỷ lệ 0; 25; 50; 75 và 100% thể tích (v/v) để tạo ra 9 loại giá thể khác nhau bao gồm: (1)100% vỏ trấu; (2) 75% vỏ trấu + 25% mụn xơ dừa; (3) 50% vỏ trấu + 50% mụn xơ dừa; (4) 75% vỏ trấu + 25% mụn xơ dừa; (5) 100% than vỏ trấu; (6) 75% than vỏ trấu +25% mụn xơ dừa; (7) 50% than vỏ trấu + 50% mụn xơ dừa; (8) 25% than vỏ trấu + 75% mụn xơ dừa; (9) 0% VT (TH) (100% mụn xơ dừa).

Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên đầy đủ với 3 lần lặp lại. Mỗi ô thí nghệm gồm 7 chậu, mỗi chậu chứa 400 cm3 giá thể.

- Các tính chất vật lý của giá thể: Độ xốp, độ thoáng khí và khả năng giữ nước của giá thể được xác định theo phương pháp của Gessert (1976).

Dùng băng keo dán kín các lỗ thoát nước phía dưới đáy chậu trồng cây. Dùng thước đo từ miệng chậu xuống 1 cm sau đó dùng bút vạch dấu 4 điểm đối diện nhau trên thành chậu. Đổ nước vào chậu đến đúng vạch dấu. Đổ nước từ chậu vào cốc đo để
tính thể tích của chậu trồng (W1).

Tiếp theo, lau khô bên trong chậu, không tháo băng dán. Đổ giá thể khô vào chậu đến đúng vạch dấu. Chú ý cách cho giá thể vào chậu giống như khi chuẩn bị chậu giá thể để trồng cây. Làm ướt giá thể trong chậu bằng cách sử dụng cốc đong và đổ từ từ lượng nước vào chậu. Khi một màng mỏng nước tự do xuất hiện ở vạch dấu - nghĩa là khi giá thể bão hòa nước - thì dừng lại. Một số giá thể khó thấm nước có thể mất nhiều thời gian (30 - 60 phút) để giá thể ngấm nước bão hòa. Tổng lượng nước được đã
đổ vào chậu giá thể là W2.

Khi giá thể đã được bão hòa hoàn toàn, tháo các băng dán dưới đáy chậu và hứng toàn bộ lượng nước thoát ra. Đo lượng nước thoát ra được W3.

Độ xốp của giá thể (%) = W2/W1 ˟ 100%

Độ thoáng khí (%) = (W2 – W3)/W1 ˟ 100%

Khả năng giữ nước (%) = Độ xốp (%) – Độ thoáng khí (%)

- Các chỉ tiêu sinh trưởng của cây được theo dõi trên cây cố định tại các thời điểm 10, 20, 30, 40 và 50 ngày sau trồng.

+ Số lá/cây: Tính từ lá non có cuống lá và phiến lá đã mở.

+ Kích thước lá: Đo chiều dài, chiều rộng phiến lá giữa của lá lớn nhất của cây.

+ Diện tích lá = Chiều dài ˟ Chiều rộng ˟ 3 ˟ Số lá/cây ˟ 0,7.

Mỗi lần thu hoạch phân loại dâu thành 2 loại, đếm số quả và cân khối lượng của từng loại: Loại 1 (thương phẩm): có trọng lượng quả > 7 g, không dị dạng, sâu, bệnh; Loại 2: quả nhỏ, quả bị dị dạng, sâu, bệnh.

- Các chỉ tiêu cấu thành năng suất (trọng lượng trung bình quả, số quả/cây, năng suất quả, tỷ lệ quả thương phẩm được tính dựa trên số liệu của tổng tất cả các lần thu hoạch quả cho đến 8 tháng sau trồng.

- Phương pháp xử lý số liệu: Số liệu thí nghiệm được phân tích phương sai bằng phần mềm MstatC và dùng tiêu chuẩn Duncan để phân hạng giá trị trung bình ở mức α = 0,05.

Qua kết quả nghiên cứu rút ra kết luận sau: Tỷ lệ vỏ trấu và than vỏ trấu phối trộn với xơ dừa ảnh hưởng rất lớn đến các tính chất vật lý của giá thể. Khả năng giữ nước của giá thể tương quan rất chặt và tỷ lệ nghịch với tỷ lệ vỏ trấu và than vỏ trấu phối trộn. Các giá thể khác nhau ảnh hưởng rất ít đến số lá/cây nhưng ảnh hưởng rất lớn đến diện tích lá. Diện tích lá tương quan chặt với tỷ lệ vỏ trấu phối trộn nhưng tương quan không chặt với tỷ lệ than vỏtrấu phối trộn. Khối lượng quả/cây có tương quan chặt với tỷ lệ vỏ trấu và than vỏ trấu phối trộn. Khốilượng quả/cây đạt cao nhất khi phối trộn 32,3% vỏ trấu với 67,7% mụn xơ dừa hoặc phối trộn 55,6% than vỏ trấu với 44,4% mụn xơ dừa.

NTD
Theo Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2/2019
In bài viết  
Bookmark
Ý kiến của bạn

Video  
 

Video

 



© Copyright 2020 Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Địa chỉ: 118/3 Trần Phú - Phường Cái Khế - Quận Ninh Kiều - thành phố Cần Thơ
Giấy phép số: 05/ GP-TTĐT, do Sở Thông tin và Truyền Thông thành phố Cần Thơ cấp ngày 23/5/2017
Trưởng Ban biên tập: Ông Vũ Minh Hải - Giám Đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Ghi rõ nguồn www.trithuckhoahoc.vn khi bạn sử dụng lại thông tin từ website này
-->