Cam sành là loại cây ăn quả mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân tại huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long, đây cũng là một trong những huyện có diện tích trồng cam sành lâu đời và lớn nhất tỉnh. Tuy nhiên, hiện nay nhiều nhà vườn đã phá bỏ vườn cam do bệnh hại gây ra dẫn đến năng suất thấp, có đến 40% số vườn bị vàng lá thối rễ nhiễm bệnh từ cấp độ trung bình đến nặng. Đối với đất canh tác, hầu hết các vườn trồng cam sành tại Tam Bình có tuổi liếp cao trên 10 năm chiếm 85%, trong canh tác nông dân ít bổ sung phân hữu cơ cho cải thiện độ phì nhiêu đất (Nguyễn Ngọc Thanh và ctv., 2018). Đây có thể là một trong các nguyên nhân dẫn đến chất lượng đất suy giảm, hàm lượng chất hữu cơ trong đất thấp, đất trở nên nén dẽ mạnh, nguồn dinh dưỡng hữu dụng trong đất giảm, mật số vi sinh vật có lợi trong đất thấp từ đó dẫn đến sự phát triển của cây bị suy giảm, bệnh hại trong đất dễ tấn công. Nghiên cứu đặc tính hình thái và đặc tính lý, hóa một số phẫu diện đất ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã chỉ ra rằng xác định hình thái và đánh giá các yếu tố trở ngại về đất sẽ đưa ra phương hướng nâng cao độ phì nhiều đất và sử dụng đất bền vững (Lê Văn Khoa và Nguyễn Văn Bé Tý, 2012). Do đó, việc miêu tả phẫu diện và phân tích các đặc tính vật lý, hóa học đất canh tác cam sành để làm cơ sở đánh giá các yếu tố trở ngại làm giảm sự sinh trưởng và năng suất trái cam sành; từ đó đưa ra những khuyến cáo về hướng cải tạo sự bạc màu đất và sử dụng đất thích hợp.
Thí nghiệm được thực hiện trong tháng 11/2016 tại vườn cam sành thuộc ấp Tường Nhơn A và Ấp Tường Nhơn, xã Tường Lộc, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Nghiên cứu cho thấy, cả hai phẫu diện (TB-VL 1 và TB-VL2) là đất phèn tiềm tàng trung bình, chịu sự ảnh hưởng của mực thủy cấp. Đặc điểm chính của phẫu diện là đất đang phát triển, gần thuần thục đến độ sâu 0 - 80 cm (phẫu diện TB-VL1), 0 - 90 cm (phẫu diện TB-VL2). Tầng Cr chứa vật liệu pyrite xuất hiện ở độ sâu > 80 cm và > 90 cm. Ở phẫu diện TB-VL1 thành phần cơ giới ở độ sâu tầng đất từ 0 - 80 cm là sét pha thịt, với thành phần cơ giới sét là chủ yếu, đất ở đây gặp những trở ngại như: dung trọng cao (1,49 - 1,51 g/cm3), đất nén dẽ, độ xốp và các tế khổng trong đất thấp (24,0 - 37,8%). Sau 40 năm lên liếp canh tác cây cam hàm lượng chất hữu cơ thấp (2,09 - 3,86% OM), lân hữu dụng ở mức trung bình ở cả tầng đất mặt và tầng tích lũy (9,8 - 16,5 mg P2O5/kg đất). Canh tác chỉ bổ sung phân vô cơ nên hàm lượng N hữu dụng trong đất cao có thể dẫn đến vấn đề mất đạm trong đất do bay hơi, trực di. Ở phẫu diện TB-VL2 thành phần cơ giới từ 0 - 90 cm là sét pha thịt và tầng tích lũy Bg với hàm lượng sét rất cao (74,1%). Tầng đất mặt canh tác Ap (0 - 20 cm) tương đối phù hợp cho cây cam với dung trọng thấp (1,15 g/cm3), độ xốp cao (53,3%), hàm lượng chất hữu cơ trong đất ở mức trung bình (5,33% OM). Tuy nhiên, đất canh tác có pH đất thấp (pH = 4,36), CEC và % độ bão hòa bazơ đất thấp, Ca2+ và Mg2+ trao đổi ở mức rất thấp. Canh tác cam sanh tại vùng đất này hạn chế xáo trộn tầng đất Bg (50 - 70 cm) lên tầng đất mặt bởi đất có dung trọng cao (1,46 g/cm3). Hàm lượng nước hữu dụng ở cả hai phẫu diện thấp đối với tầng đất Bg (50 - 70 cm), chỉ 1/3 lượng nước tích lũy ở điều kiện thủy dung ngoài đồng là hữu dụng cho sinh trưởng và phát triển của cây cam. |