Trong lĩnh vực trồng trọt, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) có vai trò rất quan trọng trong việc giữ vững năng suất, sản lượng và chất lượng cây trồng. Tuy nhiên, hiện nay người dân thường có kiến thức hạn chế về các loại hoạt chất trong thuốc BVTV dẫn tới tình trạng sử dụng thuốc BVTV thiếu hiệu quả và chưa an toàn không những làm tăng chi phí sản xuất và gây nguy cơ mất an toàn thực phẩm, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và môi trường... mà còn không hiệu quả trong công tác phòng trừ sâu bệnh hại nói chung (Nguyễn Ngọc Châu, 2003). Theo số liệu điều tra của Nguyễn Văn Tuất và cộng tác viên (2015), phần lớn diện tích cà phê tái canh tại Tây Nguyên đều không tuân thủ đúng theo quy trình kỹ thuật, trong đó có việc sử dụng thuốc BVTV chưa đúng thời điểm, chủng loại thuốc và phương pháp xử lý đất trước khi trồng là một trong những nguyên nhân dân đến tái canh cà phê chưa thành công. Thực tế cho thấy phần lớn người dân trồng cà phê tại Tây Nguyên hiện nay vẫn dựa vào thuốc BVTV hóa học là chính, tỷ lệ sử dụng thuốc sinh học đạt rất thấp. Trong khi đó, một số mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật an toàn, hiệu quả trong phòng trừ các tác nhân gây hại cà phê trước và sau tái canh chậm được nhân rộng... Do đó, việc nghiên cứu một số biện pháp sinh học và hóa học trong phòng trừ tác nhân gây chết cây cà phê vối sau tái canh tại Tây Nguyên là việc làm rất cần thiết nhằm khuyến cáo người trồng cà phê sử dụng thuốc bảo vệ thực vật một cách có hiệu quả, an toàn.
Nghiên cứu biện pháp sinh học và hóa học trong phòng trừ tác nhân gây chết cà phê vối sau tái canh tại Tây Nguyên do nhóm tác giả của Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên thực hiện từ 2016 - 2017 tại xã Đray Bhang, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trồng xen cây muồng hoa vàng và xử lý bột cây dã quỳ với lượng từ 20 - 40 g/hố sau 30 tháng trồng không ảnh hưởng đến khả sinh trưởng, phát triển của cây cà phê nhưng cũng chưa hạn chế được nguồn nấm Fusarium spp. trong đất đối với cây cà phê tái canh. Sử dụng chế phẩm sinh học: Tervigo 20 SC + Trico - VTN (CT2) và TKS - NEMA (CT3) cho hiệu lực phòng trừ tuyến trùng đạt từ 30,8% - 41,18% và phòng trừ nấm đạt từ 42,94% - 43,29%. Riêng chế phẩm sinh học Sumagrow (CT1) vừa có hiệu lực với chỉ số vàng lá 34,51%, đồng thời kích thích cây cà phê sinh trưởng và phát triển mạnh. Sử dụng Vimoca 10 G (20 g/cây) kết hợp TKS - NEMA (10 g/cây) (CT3) hoặc NoKaph 10 GR + SH-BV1 (CT4) cho hiệu lực phòng trừ tuyến trùng cao nhất đạt trên 50%, đồng thời có khả năng hạn chế tỷ lệ bệnh vàng lá, chỉ số bệnh và tỷ lệ rễ bị u sưng thối cao nhất đạt khoảng 30%. |