Ảnh: Internet
Bệnh thán thư và bệnh đốm nâu trên thanh long ngày càng trở nên phức tạp, gây thiệt hại đáng kể không những cho năng suất của cây thanh long mà còn ảnh hưởng đến phẩm chất trái gây khó khăn cho việc xuất khẩu thanh long ra nước ngoài (Nguyễn Thành Hiếu, 2013). Người trồng thanh long đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau mà chủ yếu là thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) nhưng tỷ lệ thành công còn thấp, ngược lại tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn do ô nhiễm thuốc BVTV rất cao sẽ ảnh hưởng tới sức khoẻ con người, gây ô nhiễm môi trường và mất cân bằng sinh thái. Một trong những hướng nghiên cứu theo xu hướng an toàn là sử dụng các tác nhân sinh học để hạn chế các quần thể vi sinh vật gây bệnh. Trong đó xạ khuẩn Actinomycetes là nhóm có khả năng sinh ra nhiều chất kháng sinh ức chế sự phát triển của các loại vi sinh vật gây bệnh (Qin et al., 1994). Kích thích tính kháng bệnhcũng như giúp cây trồng có khả năng chống chịu đối với điều kiện bất lợi của môi trường sống (Hasegawa et al., 2006). Đặc biệt, xạ khuẩn có thể tồn tại được trong môi trường có nồng độ muối khác nhau (Tresner, 1968). Một số nghiên cứu ghi nhận được xạ khuẩn có khả năng ức chế nấm bệnh như: Colletotrichum gloesporioides (Gomes, 2001; Suwan, 2012), bệnh thán thư trên dưa leo (Shimizu, 2009), Collectotrichumspp. (Taechowisan, 2009; Rahman et al., 2003), Colletotrichum capsici (Rajamanickam et al., 2012), Neoscytalidium dimidiatum (Hà Thị Thúy và ctv., 2016). Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và nhu cầu sử dụng trái cây an toàn của người tiêu dùng đòi hỏi không chỉ riêng thanh long mà còn nhiều mặt hàng nông sản khác nữa. Do đó, xạ khuẩn có tiềm năng rất lớn và cần được nghiên cứu. Chính vì thế, đề tài “Nghiên cứu đánh giá khả năng đối kháng của các dòng xạ khuẩn đối với nấm gây bệnh thán thư và đốm nâu trên thanh long trong điều kiện phòng thí nghiệm” đã được nhóm nghiên cứu của Viện Cây ăn quả miền Nam gồm Lê Thị Tưởng, Đặng Thị Kim Uyên, Nguyễn Thành Hiếu, Nguyễn Văn Hòa thực hiện nhằm tiếp tục hoàn thiện quy trình quản lý tổng hợp bệnh thán thư và đốm nâu đạt hiệu quả cao, bền vững đồng thời đảm bảo tiêu chí vệ sinh an toàn thực phẩm.
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 4 đến tháng 11 năm 2016 tại phòng Lab. Bệnh cây - Bộ môn Bảo vệ thực vật, Viện Cây ăn quả miền Nam. Vật liệu nghiên cứu được sử dụng là Nguồn nấm, xạ khuẩn (Bộ môn Bảo vệ thực vật - Viện Cây ăn quả miền Nam phân lập lưu trữ). Môi trường: MS (Manitol Soya Flour medium): bột đậu nành 20 g; D-Manitol 20 g; Agar 20 g; 1000 ml nước cất; pH = 7.0; PDA (Potato Dextro Agar): 200 g khoai tây 20 g đường Dextro, 20 g Agar.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, dòng xạ khuẩn TG12, TG17 và TG3 đối kháng cao nhất với nấm C. truncatum, C. gloeosporioides, N. dimidiatum. Hiệu suất đối kháng với 3 dòng nấm lần lượt là 60,37,71,33 và 52,03%. Dòng xạ khuẩn TG12 chịu muối đến nồng độ 7%, dòng TG17 ở nồng độ muối 2%. Nhóm tác giả đề nghị khảo sát hiệu quả phòng trị bệnh thán thư và đốm nâu của 2 chủng xạ khuẩn có triển vọng là TG12 và TG17 ở điều kiện nhà lưới và ngoài đồng.
|