Ảnh minh họa.
Đầm Nại có 7 nghề hoạt động khai thác thủy sản, gồm: lưới rê 3 lớp, câu vàng, te, lờ dây, lưới đáy, cào sò và khai thác hàu. Các loại ngư cụ ở đầm Nại có kích thước mắt lưới nhỏ, khả năng chọn lọc kém và đánh bắt tận thu như te, lờ dây, lưới rê 3 lớp và đặc biệt là lưới đáy – chắn ngang cửa đầm, ngoài đánh bắt tận thu còn hạn chế sự di chuyển của cá từ đầm ra vịnh Phan Rang và ngược lại. Lưới đáy có nguyên lý đánh bắt tương tự lưới kéo, tức là lọc nước lấy cá. Điểm khác biệt là lưới kéo đáy di chuyển trong quá trình hoạt động, hệ thống lưới lùa sát nền đáy, huỷ hoại rạn san hô, thảm cỏ biển; gây hại môi trường sống của các loài thủy sản còn lưới đáy thì đứng yên nhờ dòng chảy đưa tôm cá đi vào miệng đáy. Theo nguyên lý này thì lưới đáy có thể đánh bắt tất cả những loài hải sản theo dòng nước đi vào phạm vi miệng đáy. Do lưới đáy thường có kích thước mắt lưới ở đụt nhỏ nên có thể đánh bắt cả tôm, cá con và như thế là gây hại nguồn lợi thủy sản.
Nghiên cứu sử dụng đồng thời 4 miệng lưới đáy của ngư dân, cố định tại khu vực cửa đầm Nại (cầu Tri Thủy) để tiến hành thử nghiệm. Các miệng lưới đáy thử nghiệm có thông số kỹ thuật hoàn toàn giống nhau. Trên 4 miệng lưới, đồng thời lắp đặt đụt và thiết bị lọc khác nhau nhằm đánh giá khả năng chọn lọc của từng thiết bị. - Đụt 1: Đụt lưới ngư dân đang sử dụng có dạng mắt lưới hình thoi và kích thước mắt lưới 2a = 12mm (ký hiệu là M1). - Đụt 2: Đụt lưới mới có dạng mắt lưới hình thoi và kích thước mắt lưới 2a = 18mm (ký hiệu là M2). Đây là kích thước mắt lưới nhỏ nhất được phép sử dụng cho nghề lưới đáy [1,2]. - Đụt 3: Sử dụng tấm lọc mắt lưới hình vuông, có cạnh a = 9mm (ký hiệu là M3). Tấm lọc được lắp đặt trên lưng của đụt lưới ngư dân đang sử dụng (M1), có 116 cạnh mắt lưới theo chiều dọc và 107 cạnh theo chiều ngang, chiếm 48,8% diện tích làm việc của tấm lưng. - Đụt 4: Sử dụng tấm lọc mắt lưới hình vuông, có cạnh a = 11mm (ký hiệu là M4). Tấm lọc được lắp đặt trên lưng của đụt lưới ngư dân đang sử dụng (M1), có 95 cạnh mắt lưới theo chiều dọc và 87 cạnh theo chiều ngang, chiếm 45,6% diện tích làm việc của tấm lưng. Các đụt lưới được lắp đặt thêm đụt ngoài (bao đụt) nhằm thu giữ các cá thể thoát ra khỏi đụt trong (M1, M2, M3 và M4). 1.2. Tàu thuyền phục vụ nghiên cứu Nghiên cứu sử dụng tàu cá của ngư dân hoạt động nghề lưới đáy tại đầm Nại, số đăng ký: NT00360TS; công suất máy chính 15CV; chiều dài 8,50m và chiều rộng 2,55m. Các mẻ lưới được thực hiện đồng thời về thời gian, ngư trường, nhân lực, phương tiện và cấu trúc ngư cụ. Quá trình thử nghiệm đã thực hiện đánh bắt 40 mẻ lưới, mỗi miệng đáy 10 mẻ lưới. Số lượng cá thể tôm rảo thu thập đưa vào tính toán trung bình 78 cá thể tôm/mẻ lưới. Thời gian thử nghiệm: Từ ngày 4/8/2016 đến 20/8/2016. Địa điểm thử nghiệm: Ngư cụ được cố định tại khu vực gần cầu Tri Thủy, đầm Nại, tỉnh Ninh Thuận.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, kích thước tôm rảo đánh bắt bằng nghề lưới đới đáy ở đầm Nại nhỏ, dao động từ 3,0 ÷ 9,0cm. Trong đó, có 98,2% cá thể bị đánh bắt khi chưa đủ kích cỡ quy định. Kích thước cạnh mắt lưới ở đụt và thiết bị lọc càng lớn thì khả năng cho tôm thoát ra ngoài có chiều dài càng lớn, mẫu M1 là 5,0cm; mẫu M2 là 7,0cm; mẫu M3 là 7,5cm và mẫu M4 là 8,0cm. Kích thước cạnh mắt lưới giống nhau nhưng hình dạng mắt lưới khác nhau thì khả năng chọn lọc không giống nhau. Mẫu M3 có khả năng chọn lọc tốt hơn M2 đối với tôm rảo. Nghiên cứu đã xác định được các tham số chọn lọc của nghề lưới đáy đối với tôm rảo (chiều dài chọn lọc, khoảng chọn lọc, hệ số chọn lọc và đường cong chọn lọc). Lắp đặt thiết bị lọc M3, sẽ bảo vệ được 25,08% lượng cá thể tôm rảo chưa đủ kích thước khai thác trong khi ngư dân chỉ giảm 9,25% tổng sản lượng đánh bắt. Sản lượng cá thoát ra ngoài chỉ là cá con – là đối tượng cần được bảo vệ nhằm bổ sung và phát triển nguồn lợi thủy sản cho tương lai.
|