Ảnh minh họa.
Ngày nay, với sự phát triển của các kỹ thuật sinh học phân tử, nghiên cứu đánh giá đa dạng di truyền sử dụng chỉ thị DNA đã được ứng dụng rộng rãi trong nghiên cứu và chọn lọc giống cây trồng (Nguyễn Đức Thành, 2014). Ở Việt Nam, chỉ thị phân tử RAPD đã được ứng dụng để đánh giá đa dạng di truyền của một số cây trồng nhưng chưa thực hiện trên mãng cầu ta. Gần đây, nguồn gen mãng cầu ta tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bằng chỉ thị RAPD đã được thực hiện từ tháng 3/2018 đến tháng 10/2018. Mẫu lá của 40 cá thể mãng cầu ta qua tuyển chọn được thu thập để ly trích DNA, sản phẩm DNA được khuếch đại bằng 10 chỉ thị RAPD. Kết quả cho thấy, dựa vào sơ đồ quan hệ di truyền có thể chia 40 cá thể thu thập thành 2 nhóm với hệ số tương đồng di truyền dao động từ 0,76 đến 1. Trong đó, nhóm I gồm 39 cá thể, nhóm II gồm 1 cá thể. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy mức độ đa dạng di truyền của 40 cá thể thu thập, đồng thời cho thấy sự khác biệt giữa nhóm mãng cầu địa phương và mãng cầu ta du nhập mà có thể khai thác cho các chương trình chọn tạo giống.
Kết quả ly trích DNA cho thấy, tất cả 40 mẫu DNA đều có độ tinh sạch cao đủ điều kiện cho phản ứng PCR. Kết quả điện di sản phẩm PCR trên gel agarose 2% của 40 mẫu mãng cầu ta với 10 đoạn mồi RAPD cho thấy có tổng số 2308 alen được khuếch đại với sựu đa hình rất cao, số alen trung bình của mỗi chỉ thị RAPD là 230,8. Chỉ thị OPA02 khuếch đại được số alen cao nhất là 291 alen và chỉ thị OPB10 cho số alen ít nhất là 136. Số alen ở từng mẫu qua 10 chỉ thị RAPD cũng có sự khác nhau đáng kể.
Tính đa hình của các chỉ thị RAPD còn được đánh giá thông qua giá trị lượng thông tin đa hình (PIC). Gái trị PIC của từng chỉ thị phụ thuộc vào số lượng alen được phát hiện ở vị trí locus đó và tần số của các alen. Giá trị PIC càng lớn thì lượng thông tin đa hình mà chỉ thị đó cung cấp càng nhiều và ngược lại. Trong tổng số 40 mẫu mãng cầu ta thực hiện phản ứng PCR với 10 chỉ thị RAPD cho thấy giá trị PIC biến thiên từ 0,727 – 0,982, cao nhất ở chỉ thị OPA11 và thấp nhất là chỉ thị OPB07, giá trị PIC trung bình là 0,838.
Mối quan hệ di truyền của 40 cá thể mãng cầu ta nghiên cứu được thể hiện thông qua hệ số tương đồng di truyền và sơ đồ quan hệ di truyền. Kết quả cho thấy hệ số tương đồng di truyền của 40 cá thể mãng cầu ta nghiên cứu dao động từ 0,76 đến 1 và được thành 2 nhóm chính như sau:
Nhóm I có mối quan hệ gần về mặt di truyền với hệ số tương đồng dao động từ 0,85 đến 1 và có thể chia nhóm này thành 2 nhóm phụ gồm nhóm I.1 có 37 cá thể là BRVT01, BRVT02, BRVT03, BRVT04, BRVT05, BRVT06, BRVT07, BRVT08, BRVT09, BRVT40, BRVT10, BRVT39, BRVT11, BRVT34, BRVT35, BRVT36, BRVT37, BRVT38, BRVT22, BRVT24, BRVT23, BRVT25, BRVT26, BRVT27, BRVT28, BRVT12, BRVT17, BRVT18, BRVT13, BRVT14, BRVT15, BRVT16, BRVT29, BRVT19, BRVT20, BRVT21 và BRVT33. Trong nhóm này 5 cá thể BRVT03, BRVT04, BRVT05, BRVT06 và BRVT07 có quan hệ chặt về mặt di truyền với hệ số tương đồng di truyền là 1; Tương tự các cá thể BRVT08, BRVT09 và BRVT34, BRVT35 cũng có mối quan hệ di truyền chặt (hệ số tương đồng bằng 1). Nguyên nhân có thể là do các cây này được nhân từ cùng nguồn gốc nên có nền di truyền hoàn toàn giống nhau. Nhóm I.2 có 2 cá thể là BRVT30 và BRVT31, hai cá thể này có mối quan hệ rất gần nhau về mặt di truyền với hệ số tương đồng đạt 0,91.
Nhóm II gồm 1 cá thể là BRVT32 có mối quan hệ di truyền với nhóm I ở mức hệ số tương đồng di truyền 0,76. Do đó, chỉ thị RAPD với 10 đoạn mồi có thể phân nhóm được các cá thể có nguồn gốc địa phương (nhóm I) và cá thể du nhập (nhóm II) cũng như phản ảnh được sự đa dạng di truyền giữa các cá thể địa phương.
Ngoài ra, BRVT32 và BRVT33 là hai cá thể du nhập, tuy nhiên từ kết quả phân tích đa dạng di truyền hai cá thể này lại thuộc hai nhóm khác nhau, nguyên nhân có thể là do hai cá thể khác xa nhau. Bên cạnh đó, cá thể BRVT33 lại thuộc nhóm I (nhóm có nguồn gốc địa phương), có thể nguồn gốc của cá thể này có nền di truyền tương tự với nền di truyền của các cá thể địa phương và mặc dù thuộc nhóm I nhưng cá thể BRVT33 được tách thành 1 nhánh riêng với hệ số tương đồng di truyền đạt 0,86 so với các cá thể mãng cầu ta địa phương.
Đánh giá đa dạng di truyền nguồn gen mãng cầu dựa vào chỉ thị phân tử RAPD đã được nhiều nghiên cứu sử dụng. Bharad và công tác viên (2009), đã sử dụng 26 chỉ thị phân tử RAPD để đánh giá đa dạng di truyền 11 mẫu thuộc chi Annona gồm AKCa01, AKCa02, AKCa03, AKCa04, AKCa05, AKCa06, AKCa07, AKCa08, AKCa09, AKCa10 và Balanagar thu thập tại Ấn Độ, kết quả có 19 chỉ thị phần tử RAPD là đa hình và 3 mẫu AKCa05, AKCa07 và AKCa10 là hoàn toàn khác nhau về kiểu gen, 8 kiểu gen còn lại tương tự nhau. Kết quả nghiên cứu của Ahmad và cộng tác viên (2010), cho thấy trong tổng số 20 chỉ thị RAPD sử dụng có 14 chỉ thị khuếch đại được DNA với 48 băng, trong đó có 25 băng đa hình (52%) trong tổng số 17 kiểu gen thu thập và được chia thành 2 nhóm chính với các mức độ di truyền khác nhau. Tương tự, từ 20 kiểu gen thu thập thuộc chi Annona, Anugari và cộng tác viên (2016), sử dụng 11 chỉ thị RAPD sử dụng để đánh giá đa dạng di truyền cho kết quả có 152 băng được khuếch đại (80,01% đa hình), hệ số tương đồng di truyền từu 0,44 đến 0,92 và phân thành 7 nhóm, giá trị PIC biến động từ 0,86 đến 0,92. Như vậy, kết quả phân tích đa dạng di truyền 40 cá thể mãng cầu ta trong nghiên cứu này cũng phù hợp với nghiên cứu của Bharad và cộng tác viên (2009), Ahmad và cộng tác viên (2010), Anugari và cộng tác viên (2016).
Kết quả nghiên cứu thể hiện mức độ đa dạng di truyền của 40 cá thể thu thập tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với hệ số tương đồng di truyền dao động từ 0,76 – 1 và phân thành hai nhóm chính, đồng thời cho thấy sự khác biệt giữa nhóm mãng cầu địa phương và mãng cầu ta du nhập. Dù sự khác biệt không lớn nhưng có thể ứng dụng khác biệt này trong các chương trình chọn tạo giống. |