Ảnh: Internet
Rầy nâu (Nilaparva Lugenes Stal) là loại dịch hại nguy hiểm tại nhiều vùng sản xuất lúa trên thế giới và các nước Châu Á, trong đó có Việt Nam. Chúng chích hút gây bệnh cháy lá lúa và truyền virus gây bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá (Rice ragged stunt virus) làm giảm năng suất đến 70% hoặc làm mất trắng khi nhiễm rầy nặng và trên diện tích lớn (Lương Minh Châu và ctv., 2006). Đại dịch rầy nâu từng xảy ra tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) năm 1991 nhưng sau đó ngành nông nghiệp đã tìm ra giống lúa kháng rầy tốt nên lượng rầy nâu đã giảm đáng kể. Tuy nhiên, những giống lúa này khá cứng cơm và không thơm nên dần bị thay thế bởi các giống lúa chất lượng cao (lúa thơm) nhằm phục vụ nhu cầu ăn ngon ngày càng cao của người tiêu dùng. Ngày nay, phong trào trồng các giống lúa thơm như Jasmine, VNĐ 95-20, OMCS2000, ST1, ST5, ST20... nhằm phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu đang phát triển ở nhiều nơi trong vùng ĐBSCL. Hầu hết các giống lúa thơm này đều không mang gen kháng rầy nâu một cách hữu hiệu, những giống lúa này được chọn lọc ra từ tự nhiên hay qua quá trình lai tạo chỉ nhằm mục đích là tạo ra gạo thơm và ngon cơm. Do đó, những giống lúa này dễ nhiễm rầy nâu. Ngoài ra, các giống lúa thơm được trồng rải rác trong các vùng thâm canh chung nên chúng có thể là nguồn thức ăn và là nơi cư trú để cho rầy nâu tấn công và lây lan sang các giống lúa cao sản khác. Như vậy, làm sao có thể nâng cao được chất lượng lúa gạo mà vẫn hạn chế được dịch rầy nâu xảy ra như trước đây. Để có thể giải quyết vấn đề này, trong giai đoạn 2013 - 2016 nhóm nghiên cứu đã tiến hành lai tạo để chuyển gen kháng rầy nâu vào giống lúa thơm. Thông qua sự hổ trợ của công nghệ sinh học đặc biệt là kỹ thuật sinh học phân tử kết quả nghiên cứu đã chọn ra được các dòng lúa vừa mang gen thơm, vừa mang gen kháng rầy nâu dựa vào chỉ thị phân tử liên kết với gen mục tiêu. Tiếp tục kế thừa kết quả chọn tạo các dòng lai ở giai đoạn trước, đề tài “Khảo sát đặc tính nông sinh học của một số dòng lúa thơm kháng rầy nâu tại Sóc Trăng” được thực hiện để đánh giá đặc điểm nông sinh học của các dòng lúa lai trong điều kiện đồng ruộng tại Sóc Trăng và phản ứng với rầy nâu trong điều kiện nhân tạo.
Vật liệu nghiên cứu gồm 6 dòng lúa thơm mang gen kháng rầy nâu ở thế hệ BC3F4 và 5 giống bố mẹ (ST5, ST20, VD20, OM4103 và OM10043). Kết quả khảo nghiệm ngoài đồng tại Long Phú Sóc Trăng vụ Đông Xuân 2016 - 2017 cho thấy TGST của 6 dòng lai mang gen thơm kháng rầy nâu ngắn hơn các giống lúa thơm từ 7 đến 15 ngày, chiều cao cây của sáu dòng lai được xếp vào nhóm có chiều cao cây trung bình. Bốn dòng A9-22, C12-14, E4-8 và D1-6 có số bông trên bụi trung bình tương đương và cao hơn giống ba giống lúa thơm. Hai dòng B2-21 và F13-13 có số hạt trên bông trung bình cao nhất. Năm dòng A9-22, C12-14, D1-6, B2-21 và F13-13 có tỷ lệ hạt chắc tương đương với các giống bố mẹ. Kết quả đánh giá tính kháng rầy nâu trong giai đoạn mạ của các dòng lai đã chọn được 3 dòng cho phản ứng hơi kháng với rầy nâu, tương đương với hai giống bố OM4103 và OM10043 là B2-21, D1-6 và E4-8. Kết quả đánh giá hương thơm bằng phương pháp cảm quan trên hạt ghi nhận được các dòng lai đều cho kết quả từ thơm vừa đến thơm; dòng B2-21 được ghi nhận là dòng thơm hơn so với các dòng còn lại.
Từ đó, nhóm tác giả đề xuất nên tiếp tục trồng 6 dòng lai được đánh giá là mang gen thơm và 2 gen kháng rầy nâu ở nhiều địa điểm và mùa vụ khác nhau ở các tỉnh ĐBSCL để chọn lọc dòng lai ưu tú cho từng địa điểm và khảo nghiệm 2 dòng lai được chọn ở nhiều địa điểm và mùa vụ khác nhau ở các tỉnh ĐBSCL để đánh giá phản ứng của gen kháng rầy nâu với các nguồn rầy nâu khác nhau. |