Nông - Lâm - Ngư nghiệp [ Đăng ngày (26/10/2018) ]
So sánh hiệu quả sản xuất giữa mô hình nuôi lươn (Monopterus albus) VietGAP và nuôi thông thường ở An Giang
Nghiên cứu do các tác giả: Huỳnh Văn Hiền, Nguyễn Thị Ngân Hà - Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ và Nguyễn Hoàng Huy - Chi cục Thủy sản An Giang thực hiện.

Ảnh: sưu tầm.

Lươn đồng (Monopterus albus) là loại thủy đặc sản có giá trị kinh tế cao, hàm lượng đạm trong thịt lươn chiếm 18,37%. Lươn là đối tượng thích hợp nuôi ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và dễ bán vì thịt ngon và bổ dưỡng (Nguyễn Lân Hùng, 2010). Lươn hiện nay đang được nuôi và phát triển mạnh mẽ ở ĐBSCL nói chung và ở An Giang nói riêng vì các hộ dân tận dụng diện tích nhỏ quanh nhà để làm bể lót bạt hoặc bể xi măng và mô hình này mang lại lợi nhuận bình quân là 580 nghìn đồng/m2/vụ nuôi (Phạm Thị Yến Nhi, 2015). Ở An Giang, mô hình nuôi lươn có nhiều hình thức khác nhau, chủ yếu được nuôi trong bể lót bạt và bể xi măng, tập trung nhiều nhất ở các huyện Thoại Sơn, Châu Thành, Tân Châu và Châu Phú. Sản lượng lươn nuôi ở An Giang năm 2011 là 478 tấn, tăng nhanh đến năm 2013 là 1.470 tấn và đến năm 2015 giảm còn 1.067 tấn (Chi cục Thủy Sản An Giang, 2015). Mô hình nuôi lươn hiện nay được nông hộ tận dụng nguồn thức ăn tươi sống khai thác vào mùa lũ như ốc bươu vàng, cua và cá tạp để góp phần cải thiện thu nhập và tận dụng lao động gia đình nhàn rỗi. Hiện nay, mô hình nuôi lươn thương phẩm VietGAP mới được bắt đầu từ dự án hỗ trợ của tỉnh An Giang và phát triển theo hướng nuôi công nghiệp, nhằm đáp ứng nhu cầu thực phẩm và an toàn vệ sinh thực phẩm cho người tiêu dùng. Sản phẩm lươn nuôi VietGAP đã được đưa vào phân phối tại hệ thống siêu thị tại địa phương và chợ đầu mối thành phố Hồ Chí Minh với thông tin và xuất xứ nguồn gốc rõ ràng, giúp cho người tiêu dùng an tâm khi sử dụng. Năm 2015, tỉnh An Giang mới bắt đầu triển khai mô hình nuôi lươn VietGAP, và đến năm 2016 thì có 65 hộ tham gia mô hình nuôi lươn VietGAP theo tổ hợp tác và hộ cá thể với diện tích 6.000 m2, tập trung nhiều ở huyện An Phú, Thành phố Long Xuyên, huyện Châu Thành và huyện Châu Phú (Chi cục Thủy sản An Giang, 2016). Tuy nhiên, hiện tại chưa có nhiều nghiên cứu sâu về khía cạnh kĩ thuật của mô hình nuôi lươn tiêu chuẩn VietGAP, cũng như so sánh hiệu quả sản xuất của mô hình nuôi lươn VietGAP với nuôi lươn thông thường ở An Giang. Do vậy, nghiên cứu này với mục tiêu là nhằm so sánh hiệu quả kĩ thuật và tài chính giữa hai mô hình sản xuất để cung cấp thông tin cho nông dân và cơ quan ban ngành định hướng sản xuất phù hợp, cũng như cung cấp thông tin cho người tiêu dùng chọn lựa sản phẩm lươn VietGAP phục vụ tiêu dùng. 

Nghiên cứu này được thực hiện từ tháng 8/2017 đến tháng 04/2018 thông qua việc phỏng vấn 90 hộ nuôi lươn (45 hộ nuôi lươn VietGAP và 45 hộ nuôi lươn thông thường) bằng bảng câu hỏi có cấu trúc được soạn sẵn với phương pháp chọn hộ ngẫu nhiên. Phương pháp thống kê mô tả và so sánh giá trị trung bình giữa các biến định lượng giữa nhóm hộ nuôi lươn VietGAP với nuôi lươn thông thường là phương pháp kiểm định Independent-Samples T-Test được sử dụng để phân tích số liệu. Kết quả cho thấy, mô hình nuôi lươn VietGAP có diện tích nuôi bình quân là 104,2 m2/hộ và thời gian nuôi là 274 ngày/vụ, với mật độ thả giống là 65,2 con/m2 và năng suất 7,9 kg/m2/vụ. Mô hình nuôi lươn thông thường có diện tích bình quân là 97,5 m2/hộ, thời gian nuôi ngắn hơn (243 ngày/vụ), với mật độ thả giống 58,7 con/m2 và năng suất là 6,6 kg/m2/vụ. Tổng chi phí của mô hình nuôi lươn VietGAP là 509,9 nghìn đồng/m2/vụ với lợi nhuận 572,9 nghìn đồng/m2/vụ và tỉ suất lợi nhuận là 1,2 lần. Tổng chi phí mô hình nuôi lươn thông thường là 425,5 nghìn đồng/m2/vụ, lợi nhuận 470,6 nghìn đồng/m2/vụ và tỉ suất lợi nhuận là 1,3 lần. Kết quả cho thấy, mô hình nuôi lươn VietGAP đạt hiệu quả cao hơn nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Khó khăn của hai mô hình nuôi lươn là giá bán lươn thương phẩm không ổn định và chi phí đầu tư khá cao.

lntrang
Theo Tạp Chí Khoa học Trường ĐH Cần Thơ-Tập 54, Số CĐ Thủy sản, Phần B(2018)
In bài viết  
Bookmark
Ý kiến của bạn

Video  
 

Video

 



© Copyright 2020 Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Địa chỉ: 118/3 Trần Phú - Phường Cái Khế - Quận Ninh Kiều - thành phố Cần Thơ
Giấy phép số: 05/ GP-TTĐT, do Sở Thông tin và Truyền Thông thành phố Cần Thơ cấp ngày 23/5/2017
Trưởng Ban biên tập: Ông Vũ Minh Hải - Giám Đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Ghi rõ nguồn www.trithuckhoahoc.vn khi bạn sử dụng lại thông tin từ website này
-->