Nông - Lâm - Ngư nghiệp [ Đăng ngày (15/10/2018) ]
Hiện trạng kỹ thuật và tài chính của nghề nuôi nghêu (Meretrix lyrata) tại huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang
Nghiên cứu do các tác giả: Lê Quốc Phong, Nguyễn Công Tráng và Phan Duy Khánh - Khoa Nông nghiệp và Công nghệ thực phẩm, Trường Đại học Tiền Giang thực hiện.

Ảnh: sưu tầm.

Nghề nuôi động vật thân mềm ở vùng ven biển Việt Nam đang có xu hướng phát triển rất mạnh, đặc biệt là nuôi nghêu, ốc hương, vẹm xanh, hàu,… Sự phát triển của nghề nuôi động vật thân mềm ngoài việc giải quyết thực phẩm, tăng nguyên liệu sản xuất, còn góp phần làm cân bằng sinh thái, ổn định môi trường vùng ven bờ biển (Lê Tấn Thới, 2010). Trong đó, nghề nuôi nghêu (Meretrix lyrata) ở ven biển đã có những bước phát triển mạnh mẽ về diện tích và sản lượng nuôi cũng như mức độ thâm canh trong những năm qua. Năm 2010, tổng diện tích nuôi nghêu của cả nước khoảng hơn 15.000 ha, đạt sản lượng trên 85.000 tấn, trong đó xuất khẩu được 19.000 tấn với giá trị xuất khẩu đạt khoảng 40 triệu đô la Mỹ (Vụ Nuôi trồng thủy sản, 2011). Trong định hướng quy hoạch phát triển nuôi nhuyễn thể hàng hóa tập trung đến năm 2020 và định hướng năm 2030 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, diện tích nuôi nghêu đến năm 2020 dự kiến là 23.110 ha và đến năm 2030 là 24.550 ha; sản lượng nghêu thu hoạch được năm 2020 dự kiến là 305.550 tấn và đến năm 2030 dự kiến thu được 393.120 tấn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2016).

Mặc dù nghề nuôi nghêu thương phẩm đã góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế, góp phần xóa đói giảm nghèo và cải thiện đáng kể đời sống cho người dân ở các vùng ven biển. Tuy nhiên, nghề nuôi nghêu hiện nay đang đối mặt với nhiều khó khăn như: tình trạng khai thác nghêu giống tràn lan, chưa có biện pháp quản lý và bảo vệ nguồn lợi tự nhiên hợp lý, thị trường tiêu thụ nghêu không ổn định,… Bên cạnh đó, tình hình nghêu nuôi thương phẩm bị chết hàng loạt trong những năm gần đây ở một số tỉnh như Thái Bình, Nam Định, Bến Tre, Tiền Giang,… đã gây nhiều khó khăn về nguồn vốn để tiếp tục đầu tư vào nuôi nghêu. Đặc biệt, tại Tiền Giang, năm 2015, diện tích thả nuôi nghêu là 1.731 ha và chủ yếu tập trung tại huyện Gò Công Đông, tuy nhiên diện tích nghêu chết hàng loạt khoảng 1.580 ha (chiếm 91% diện tích nuôi), do đó gây thiệt hại về sản lượng khoảng 16.524 tấn và giá trị là 330 tỷ đồng (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Tiền Giang, 2015). 

Để nghề nuôi nghêu truyền thống được hiệu quả hơn, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nội địa và xuất khẩu, góp phần cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập cho người dân trong vùng ven biển Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang, thì việc đánh giá về hiện trạng kỹ thuật và tài chính xã hội của nghề nuôi nghêu là hết sức cần thiết. Kết quả nghiên cứu là những cơ sở dữ liệu quan trọng, đề xuất các giải pháp giúp nhà chức trách tại địa phương giải quyết những khó khăn để nghề nuôi nghêu phát triển bền vững trong điều kiện biến đổi khí hậu như hiện nay. 

Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá hiện trạng kỹ thuật, tài chính của nghề nuôi nghêu trong bối cảnh môi trường sống ở Tiền Giang đang đối mặt với biến đổi khí hậu và môi trường ngày càng ô nhiễm. Kết quả điều tra, đã xác định các hiện trạng kỹ thuật như sau: diện tích nuôi trung bình/hộ (6,4 ± 1,09 ha), cỡ giống thả nuôi (2.604 ± 527,5 con/kg), lượng giống thả (2,3 ± 0,29 tấn/ha), mật độ thả (387,9 ± 71,7 con/m2), thời gian nuôi (17,5 ± 1,23 tháng), cỡ nghêu thu hoạch (56,6 ± 1,04 con/kg) và tỉ lệ sống (34,1 ± 1,12%). Năng suất nuôi trung bình (13 ± 1,28 tấn/ha/vụ) và có mối tương quan với các yếu tố: điều kiện sân nuôi, diện tích, mật độ và thời gian nuôi. Hiện trạng tài chính: giá bán nghêu thương phẩm (16,5 ± 0,77 nghìn đồng/kg), chi phí sản xuất (103,6 ± 12,4 triệu đồng/ha/vụ), doanh thu (198,4 ± 19,1 triệu đồng/ha/vụ). Lợi nhuận trung bình (94,8 ± 15,9 triệu đồng/ha/vụ) và có mối tương quan chặt chẽ với diện tích, sản lượng, mật độ và thời gian nuôi. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đã xác định được một số khó khăn, thách thức mà hiện tại mà người nuôi nghêu ở Gò Công Đông đang gặp phải (nghề nuôi phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, con giống tự nhiên khan hiếm, dịch bệnh và thiếu vốn sản xuất). Tuy nhiên, có 90% các hộ được khảo sát cho biết họ vẫn tiếp tục phát triển nghề nuôi nghêu tại địa phương.

lntrang
Theo Tạp Chí Khoa học Trường ĐH Cần Thơ-Tập 54, Số CĐ Thủy sản, Phần B(2018)
In bài viết  
Bookmark
Ý kiến của bạn

Video  
 

Video

 



© Copyright 2020 Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Địa chỉ: 118/3 Trần Phú - Phường Cái Khế - Quận Ninh Kiều - thành phố Cần Thơ
Giấy phép số: 05/ GP-TTĐT, do Sở Thông tin và Truyền Thông thành phố Cần Thơ cấp ngày 23/5/2017
Trưởng Ban biên tập: Ông Vũ Minh Hải - Giám Đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Ghi rõ nguồn www.trithuckhoahoc.vn khi bạn sử dụng lại thông tin từ website này
-->