Ảnh: sưu tầm.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển các loại hình nuôi trồng thủy sản, với sản lượng cá đạt 1.788.517 tấn (FAO, 2015), trong đó nghề ương giống cá trê lai là một trong những nghề đang phát triển mạnh do nhu cầu con giống ngày càng tăng, và là một trong những đối tượng nuôi quan trọng ở nhiều địa phương trong vùng (Dương Nhựt Long và ctv., 2014). Cá trê lai mang những đặc điểm trung gian của hai loài bố mẹ, đó là sự tăng trưởng nhanh và khả năng kháng bệnh cao nên được người nuôi ưa chuộng (Bạch Thị Quỳnh Mai, 2014).
Do nhu cầu thị trường hiện nay, cá trê lai là đối tượng được rất nhiều hộ dân ở tỉnh Tiền Giang chọn ương giống và kinh doanh cá giống. Nghiên cứu này có thể giúp lí giải về sự phát triển mạnh của hai khâu ương giống và kinh doanh cá giống trê lai tại tỉnh Tiền Giang, trong bối cảnh hiện chưa có đánh giá đầy đủ về khía cạnh kĩ thuật, quản lí và tài chính của hai khâu ương và kinh doanh cá giống tại địa phương. Hơn nữa, một số nghiên cứu có liên quan gần đây cũng tập trung chủ yếu ở khâu nuôi cá trê lai giống trong vùng ĐBSCL (Nguyễn Văn Cầu, 2016).
Nghiên cứu này nhằm đánh giá các khía cạnh kĩ thuật, quản lí và tài chính của các hộ ương và kinh doanh cá trê lai giống ở tỉnh Tiền Giang, làm cơ sở cho việc quản lí và phát triển hiệu quả hoạt động ương và kinh doanh cá giống trê lai tại địa phương.
Nghiên cứu đã tiến hành điều tra 110 hộ ương và 38 cơ sở kinh doanh cá trê lai giống trên địa bàn tỉnh Tiền Giang từ tháng 02/2017 đến tháng 10/2017 nhằm đánh giá hiệu quả của các hoạt động trên. Kết quả khảo sát hoạt động ương cá trê lai giống cho thấy, nhóm hộ có diện tích trung bình ao ương 1.000-2.000 m2/ao (nhóm I) và 2.001-3.000 m2/ao (nhóm II) có năng suất và lợi nhuận cao hơn nhóm diện tích trung bình ao ương 3.001-6.000 m2/ao (nhóm III) với khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê (p<0,05). Trong đó, năng suất ương trung bình của nhóm I, II, III lần lượt là 939,0; 901,5 và 779,2 kg/1.000 m2/vụ, lợi nhuận trung bình của ba nhóm lần lượt là 9,30; 8,93 và 6,79 triệu đồng/1.000 m2/vụ. Việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất ương cho thấy tỉ lệ sống có ảnh hưởng quan trọng nhất đến năng suất ương, đồng thời tỉ lệ sống trung bình cũng giảm dần ở ba nhóm diện tích ao ương I, II và III lần lượt là 28,3%, 25,5% và 21,7%. Điều này cho thấy việc quản lí diện tích ao ương phù hợp là yếu tố quan trọng ban đầu để phát triển nghề ương hiệu quả. Kết quả khảo sát hoạt động kinh doanh cá trê lai giống cho thấy lợi nhuận trung bình của nhóm A(chuyên bán lẻ) đạt 16,72 triệu đồng/hộ/tháng, thấp hơn so với nhóm B (bán sỉ và lẻ) là 51,16 triệu đồng/hộ/tháng, nhưng tỉ suất lợi nhuận của nhóm A (20,89%) lại cao hơn nhóm B (7,66%). Điều này cho thấy để đạt được quy mô kinh doanh và lợi nhuận tuyệt đối lớn, các cơ sở kinh doanh cá giống cần có chi phí vốn lớn và chấp nhận tỉ suất lợi nhuận hợp lí để phát triển thị trường. |