Nông - Lâm - Ngư nghiệp [ Đăng ngày (06/10/2018) ]
Khía cạnh kỹ thuật và hiệu quả tài chính của mô hình sản xuất giống Cua biển (Scylla paramamosain) ở đồng bằng sông Cửu Long
Khía cạnh kỹ thuật và hiệu quả tài chính của mô hình sản xuất giống Cua biển (Scylla paramamosain) ở đồng bằng sông Cửu Long

Ảnh: danviet.vn

Hiện nay, nghề nuôi cua biển (Scylla paramamosain) đang phát triển mạnh ở nước ta bên cạnh những đối tượng được nuôi chủ lực như tôm sú, tôm thẻ,… Cua biển được nuôi phổ biến vì dễ nuôi, ít dịch bệnh, tăng trưởng nhanh, có kích thước lớn và giá trị kinh tế cao, đồng thời dễ bảo quản sau thu hoạch (Overton et al., 1997). Trước đây, nguồn cung cấp cua giống cho nghề nuôi chủ yếu từ khai thác tự nhiên, tuy nhiên nguồn giống tự nhiên không ổn định do biến động theo mùa vụ, kích cỡ không đều, có sự trộn lẫn nhiều loài khác nhau nên không đáp ứng được nhu cầu và chất lượng cho nuôi thương phẩm. Từ đó nhiều nghiên cứu đã được thực hiện: quy trình sản xuất cua giống nhân tạo, nghiên cứu đặc điểm sinh sản của cua biển (Trần Ngọc Hải, 1997);  nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản và quy trình kỹ thuật sản xuất cua giống (Nguyễn Cơ Thạch và ctv., 2004); nghiên cứu cải thiện kỹ thuật nuôi vỗ cua (Trương Trọng Nghĩa et al,. 2007); nghiên cứu ảnh hưởng của độ kiềm đến tỉ lệ biến thái và tỉ lệ sống của ấu trùng cua biển (Lý Văn Khánh và ctv., 2015); thực nghiệm ương ấu trùng cua biển san thưa ở các giai đoạn khác nhau (Trần Ngọc Hải và Lê Quốc Việt, 2017). Từ những thành công bước đầu của những nghiên cứu trên, hiện nay ở ĐBSCL các trại đã chủ động để sản xuất cua giống phục vụ cho nghề nuôi. Tuy nhiên trong quá trình sản xuất cua giống vẫn còn nhiều khó khăn tồn tại. Vì thế, nghiên cứu về khía cạnh kỹ thuật và hiệu quả tài chính của mô hình sản xuất giống cua biển ở một số tỉnh ĐBSCL được thực hiện nhằm xác định thực trạng sản xuất giống cua biển, các yếu tố kỹ thuật và hiệu quả tài chính của các trại sản xuất cua giống các tỉnh ĐBSCL (Kiên Giang, Cà Mau và Bạc Liêu), từ đó làm cơ sở góp phần cải tiến quy trình sản xuất giống cua biển trong vùng.

Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 8 đến tháng 12 năm 2017 thông qua việc phỏng vấn trực tiếp tại 34 trại sản xuất cua giống ở 3 tỉnh khu vực ĐBSCL gồm: Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau. Kết quả khảo sát cho thấy, diện tích trung bình của các trại sản xuất cua giống là 516±1.096 m2, tổng thể tích bể ương là 234±416 m3, thể tích trung bình mỗi bể ương là 4±2 m3 và sản xuất trung bình 6±2 đợt/năm. Trong các trại được khảo sát có 32,4% tự nuôi vỗ cua mẹ và 67,6% mua cua ôm trứng. Mật độ ương ấu trùng trung bình 395±141 con/L, sau 9±2 ngày ương thì tiến hành san thưa với mật độ 82±31con/L. Trung bình sau 25±1 ngày ương, tỉ lệ sống của cua đạt 4,6% (2,3-7,7%), năng suất trung bình 5.492±2.500 con/m3 và sản lượng đạt 1,29±2,22 triệu con/đợt. Trong 34 trại được khảo sát, trại có lợi nhuận chiếm 91,2% và 8,8% còn lại là lỗ vốn. Đối với các trại có lợi nhuận, tổng chi phí trung bình là 23,4 triệu đồng/cua mẹ/đợt (228,7±92,9 triệu đồng/trại/đợt) và lợi nhuận bình quân 9,5 triệu đồng/cua mẹ/đợt (89,0±167,2 triệu đồng/trại/đợt), tương ứng với tỉ suất lợi nhuận là 0,41±0,27. Đối với các trại lỗ vốn thì lỗ từ 1,9 – 4,2 triệu đồng/cua mẹ/đợt (7,4 – 16,9 triệu đồng/trại/đợt).


lntrang
Theo Tạp Chí Khoa học Trường ĐH Cần Thơ-Tập 54, Số CĐ Thủy sản, Phần B(2018)
In bài viết  
Bookmark
Ý kiến của bạn

Video  
 

Video

 



© Copyright 2020 Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Địa chỉ: 118/3 Trần Phú - Phường Cái Khế - Quận Ninh Kiều - thành phố Cần Thơ
Giấy phép số: 05/ GP-TTĐT, do Sở Thông tin và Truyền Thông thành phố Cần Thơ cấp ngày 23/5/2017
Trưởng Ban biên tập: Ông Vũ Minh Hải - Giám Đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Ghi rõ nguồn www.trithuckhoahoc.vn khi bạn sử dụng lại thông tin từ website này
-->