Nông - Lâm - Ngư nghiệp
[ Đăng ngày (06/10/2018) ]
|
Đánh giá phương pháp bảo quản và chất lượng SCD (dạng tế bào đơn) thu hoạch từ rong bún (Enteromorpha intestinalis)
|
|
Nghiên cứu do các tác giả: Ngô Thị Thu Thảo, Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Huỳnh Anh Huy và Lê Phước Trung - Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ thực hiện.
|
Ảnh: sưu tầm.
Việc tìm kiếm một nguồn thức ăn thay thế khác ít tốn kém hơn và giảm thiểu các giai đoạn sản xuất phức tạp, nhưng vẫn đảm bảo được các tiêu chí như dinh dưỡng và khả năng hấp thụ không thua kém so với tảo đơn bào đã được quan tâm trong các trại sản xuất giống thủy sản. SCD là từ viết tắt của “Single cell detritus” thường bao gồm các cơ thể hoặc các mảnh của các sinh vật chết do các quần xã vi sinh vật, nấm mốc xâm chiếm tạo nên những mảnh vụn có kích thước đa dạng. Đã có nhiều nghiên cứu tạo SCD từ rong biển để làm thức ăn cho động vật thân mềm, trong đó Uchida (1996) sử dụng các tính chất phân hủy của vi khuẩn biển Alteromonas espejiana để tạo ra mùn hữu cơ nguyên sinh (protoplasmatic detritus) từ rong bẹ Laminaria japonica. Tương tự, Uchida and Numaguchi (1997) áp dụng các kỹ thuật tương tự để có được dạng tế bào (SCD) từ rong Ulva pertusa, và cho thấy rằng các hạt này có thể dễ dàng tiêu thụ bởi ấu trùng của loài nghêu Ruditapes philippinarum. Các hạt SCD có đường kính 2-10 µm, tương tự như kích thước của các loài tảo như Pavlova lutheri, Isochrysis galbana và Tetraselmis suecica, do đó có thể sử dụng SCD làm thức ăn ở các trại sản xuất giống động vật thân mềm. Theo Felix and Pradeepa (2011), SCD có hàm lượng đạm thô là 35%, do đó có giá trị dinh dưỡng cao. Các hạt SCD có có thể được sản xuất với các kích cỡ khác nhau, theo nhu cầu dinh dưỡng của mỗi loài, có thể thay thế một phần hoặc hoàn toàn các loài vi tảo làm thức ăn trong trại sản xuất giống, ngoài ra SCD có thể được lưu trữ lên đến một năm ở nhiệt độ phòng. Vì Artemia có đặc điểm ăn lọc, nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định phương pháp thích hợp để bảo quản sản phẩm SCD từ rong bún (Enteromorpha intestinalis) và đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng SCD làm thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của Artemia.
Quy trình thu hoạch SCD gồm ba bước bao gồm:1) Xay nhuyễn bột rong khô và rây qua mắt lưới 200 µm; 2) Ngâm bột rong trong 2 giờ sau đó ủ với nấm men 48 giờ; 3) Lọc qua mắt lưới 50 µm và ly tâm để cô đặc sản phẩm. Phần ly tâm thu được SCD cô đặc và giữ lạnh ở 4oC gọi là SCD tươi (SCD-T); phần khác đem đi sấy gọi là SCD khô (SCD-K). Kết quả cho thấy SCD-T có thời gian bảo quản ngắn trong khoảng 15 ngày ở nhiệt độ 4°C, trong thời gian bảo quản mật độ các hạt SCD có xu hướng giảm trong khi SCD-K có thời gian bảo quản lâu hơn. Artemia được cho ăn với năm loại thức ăn khác nhau trong đó đối chứng là thức ăn tôm sú số 0 và bốn nghiệm thức còn lại gồm SCD-K và SCD-T với các mức thay thế thức ăn tôm sú tương ứng là 50% và 100%. Artemia đạt chiều dài, tỷ lệ sống (63,8%) và các chỉ số sinh sản cao nhất (49,3 phôi/con cái) khi sử dụng 100% thức ăn tôm sú. Tuy nhiên, khi kết hợp 50% thức ăn SCD-K với 50% thức ăn tôm cho kết quả về tỷ lệ sống đạt 54,67 % sau 14 ngày nuôi và khả năng sinh sản của Artemia với sức sinh sản đạt 34,1 phôi/con cái. Kết quả cho thấy khẩu phần ăn có tỷ lệ SCD khô thấp hơn 50% có thể được nghiên cứu ứng dụng làm thức ăn thay thế cho Artemia. |
lntrang
Theo Tạp Chí Khoa học Trường ĐH Cần Thơ-Tập 54, Số CĐ Thủy sản, Phần B(2018) |