Nấm mốc là nhóm vi sinh vật phát triển mạnh trong điều kiện khí hậu ở Việt Nam. Đặc biệt trong các phế phụ liệu (giàu xenluloza) từ quá trình trồng trọt và chế biến cà phê như: đất, cành lá, thân gỗ mục, vỏ quả cà phê. Nghiên cứu này tập trung vào quá trình phân lập, tuyển chọn chủng nấm mốc Trichoderma asperellum (từ các nguồn nêu trên) có khả năng sinh enzym xenlulaza hoạt tính cao.
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, có 5 dòng nấm thuộc chủng Trichoderma phân lập được từ quả cà phê có tính đặc hiệu cao với enzym xenlulaza. Trong số đó, chủng Trichoderma asperellum QT5 có khả năng sinh tổng hợp xenlulaza hoạt tính cao nhất và đạt 1,17 U/mL (CMCaza) sau 48 giờ nuôi cấy trên môi trường lỏng cơ bản.
Quá trình tối ưu môi trường nuôi cấy chủng nấm T. asperellum QT5 được lựa chọn như sau: Môi trường lên men lỏng, tốc độ lắc 200 vòng/phút, thời gian nuôi cấy 7 ngày, nhiệt độ nuôi cấy 350C, pH môi trường 7,0, cơ chất cảm ứng 1% cám gạo, nồng độ dịch chiết khoai tây là 100%, khoáng bổ sung là KCl 1,5%, nguồn nitơ bổ sung là (NH4)2SO4 0,2%. Hoạt tính CMCaza đạt được là 13,6 U/mL. Sau đó enzym thô được tinh sạch sơ bộ bằng ethanol (tỷ lệ enzym:ethanol là 1:3,5). Kết quả tinh sạch: hoạt tính CMCaza đạt 21,72 U/mL (49,59 U/mg), hiệu suất thu hồi đạt 89,43%, độ tinh sạch đạt 3,4 lần. |