Nông - Lâm - Ngư nghiệp [ Đăng ngày (12/05/2018) ]
Đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trong vùng đê bao khép kín – Trường hợp nghiên cứu tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang
Nghiên cứu do các tác giả: Nguyễn Ngọc Ngân, Trần Thị Lệ Hằng, Văn Phạm Đăng Trí - Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên, Trường Đại học Cần Thơ; Nguyễn Xuân Thịnh - Ban Quản lý Dự án huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang thực hiện.

Ảnh: baomoi.com

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nằm ở hạ lưu sông Mekong và là vùng góp phần quan trọng cho an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu gạo của Việt Nam với diện tích đất nông nghiệp chiếm 81% tổng diện tích đất tự nhiên, sản lượng gạo xuất khẩu chiếm khoảng 80% sản lượng của cả nước (Võ Hùng Dũng, 2012; Văn Phạm Đăng Trí và ctv., 2013). Ngoài ra, sản lượng lúa của vùng luôn chiếm trên 50% của cả nước và tăng trưởng đều qua các năm, từ 12,83 triệu tấn vào năm 1995 đến 19,29 triệu tấn vào năm 2005 và đạt 23,18 triệu tấn vào năm 2011 (Tổng cục Thống kê, 2014). Tuy nhiên, sự biến động cơ cấu mùa vụ, thay đổi lịch thời vụ của ĐBSCL đã làm phá vỡ quy hoạch, gây khó khăn cho việc quản lý sản xuất nông nghiệp theo hướng ổn định, bền vững của vùng (Trần Thị Hiền và Võ Quang Minh, 2014).

An Giang là tỉnh nằm ở đầu nguồn ĐBSCL có diện tích canh tác lớn nhất vùng (625,8 nghìn ha) (Tổng cục Thống kê, 2015). Với những thuận lợi về điều kiện tự nhiên, hệ thống thủy nông và chú trọng áp dụng các phương pháp canh tác lúa tiên tiến, An Giang đã trở thành tỉnh có sản lượng lúa cao nhất so với các tỉnh ĐBSCL là 4.039,3 nghìn tấn (GSO, 2015). Năng suất lúa ngày càng tăng nhưng lợi nhuận của người nông dân ngày càng giảm vì giá bán không ổn định và chi phí sản xuất cao (Lê Cảnh Dũng và Võ Văn Tuấn, 2014) nên những năm gần đây một số bộ phận người dân tỉnh An Giang đã chuyển đổi mô hình sản xuất từ trồng lúa sang trồng màu và cây ăn trái để nâng cao lợi nhuận. Trong đó, Chợ Mới là huyện đi đầu trong chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, đặc biệt trong chuyển đổi từ mô hình sản xuất lúa độc canh sang luân canh lúa-màu (Quang Minh Nhựt, 2007). Mặc dù quá trình chuyển đổi bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế cao góp phần cải thiện đời sống của người dân nhưng một số người dân đã gặp không ít khó khăn và trở ngại do thiếu kỹ thuật canh tác cũng như thiếu những kiến thức phù hợp trong chuyển đổi từ sản xuất lúa độc canh sang mô hình luân canh lúa-màu (Quan Minh Nhựt, 2008). Vì thế, nghiên cứu “Đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trong vùng đê bao khép kín, trường hợp nghiên cứu tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang” dựa trên khung đánh giá DPSIR là rất cần thiết nhằm (1) xác định hiện trạng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tại huyện Chợ Mới; (2) Phân tích thuận lợi và khó khăn của người dân khi chuyển đổi mô hình canh tác; (3) Đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tại khu vực nghiên cứu.

DPSIR là chữ đầu của năm từ Driving Forces (D) - Động lực, Pressure (P) - Áp lực, State (S) - Hiện trạng, Impact (I) - Tác động, Response (R) - Đáp ứng. Khung DPSIR được thành lập bởi Tổ chức hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD, 1993), sau đó được thông qua và xây dựng từ Tổ chức Môi trường Châu Âu chiều phản hồi. Với cách xây dựng mô hình nhận thức như vậy, DPSIR là một công cụ hiệu quả để tìm hiểu các mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố kinh tế, xã hội và con người thông qua xác định và phân tích năm chỉ số D, P, S, I, R. Do đó, khung DPSIR được áp dụng trong nghiên cứu để xác định, phân tích và đánh giá các chuỗi quan hệ nhân quả: nguyên nhân dẫn đến việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tại khu vực nghiên cứu, các tác động gây ra bởi việc chuyển đổi và các biện pháp ứng phó cần thiết.

Phương pháp phỏng vấn trực tiếp nông hộ và tổng quan tài liệu được sử dụng dựa trên khung đánh giá tổng hợp DPSIR nhằm xác định và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc ra quyết định chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong giai đoạn 2012 – 2016, người dân có xu hướng thu hẹp dần diện tích trồng lúa kém hiệu quả để chuyển sang trồng màu và cây ăn trái có hiệu quả kinh tế hơn. Ngoài ra, mô hình trồng bắp non kết hợp chăn nuôi bò là tiềm năng và thế mạnh để phát triển kinh tế tại khu vực nghiên cứu. Nguyên nhân quyết định sự chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp chủ yếu do yếu tố kinh tế xã hội bao gồm: hiệu quả kinh tế từ mô hình đem lại, nhu cầu thị trường và theo xu hướng chuyển đổi chung của người dân tại địa phương. Quá trình chuyển đổi bước đầu giúp phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của người dân. Tuy nhiên, một số người dân đã gặp khó khăn về kỹ thuật canh tác, chi phí đầu tư và khâu thu hoạch khi chuyển đổi mô hình sản xuất mới.

lntrang
Theo Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ - Số Môi trường 2017
In bài viết  
Bookmark
Ý kiến của bạn

Video  
 

Video

 



© Copyright 2020 Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Địa chỉ: 118/3 Trần Phú - Phường Cái Khế - Quận Ninh Kiều - thành phố Cần Thơ
Giấy phép số: 05/ GP-TTĐT, do Sở Thông tin và Truyền Thông thành phố Cần Thơ cấp ngày 23/5/2017
Trưởng Ban biên tập: Ông Vũ Minh Hải - Giám Đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Ghi rõ nguồn www.trithuckhoahoc.vn khi bạn sử dụng lại thông tin từ website này
-->