Nông - Lâm - Ngư nghiệp [ Đăng ngày (23/04/2018) ]
Hiện trạng sử dụng và quản lý tài nguyên nước mặt trong sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản tại huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng
Nghiên cứu do các tác giả: Nguyễn Ngọc Ngân, Trần Thị Lệ Hằng, Nguyễn Minh Trí và Văn Phạm Đăng Trí - Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên, Trường Đại học Cần Thơ thực hiện.

Ảnh: tepbac.com

Nước là một chủ đề ngày càng trở nên quan trọng hàng đầu trên thế giới trong việc thay đổi chính sách, quản lý và quy hoạch (Grafton and Hussey, 2011). Hiện nay, sự mất cân đối giữa nguồn nước và nhu cầu sử dụng nước đã gây ra tình trạng khan hiếm nguồn tài nguyên nước và trở thành một trong những vấn đề gây bức xúc nhất trên thế giới (Peterson and Schoengold, 2008). Tình hình này sẽ ngày càng diễn ra nghiêm trọng hơn dưới áp lực của sự gia tăng dân số và biến đổi khí hậu toàn cầu (Chartres and Varma, 2010). Theo Đoàn Thế Lợi và Đào Quang Khải (2012), tài nguyên nước ngày càng khan hiếm, suy giảm cả về số lượng và chất lượng, kèm theo đó là hạn hán, lũ lụt xảy ra gay gắt ở cả quy mô, mức độ và thời gian, trong khi nhu cầu sử dụng nước ngày càng tăng, đó là nguyên nhân gây ra khủng hoảng về nước như hiện nay. Một trong những giải pháp chủ yếu để giảm cuộc khủng hoảng nước toàn cầu là cải thiện công tác quản lý nguồn tài nguyên này (Oelkers et al., 2011). Vì thế, việc quản lý tài nguyên nước bền vững đang là vấn đề rất được quan tâm (Hazarika and Nitivattananon, 2015). Mỹ Xuyên là huyện nằm gần trung tâm của tỉnh Sóc Trăng có diện tích là 37.095,15 ha. Mỹ Xuyên có hệ thống kênh, rạch phát triển, đan xen thành mạng lưới dày đặc vừa cung cấp nước cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, tháu chua rửa mặn, vừa là tuyến giao thông thủy quan trọng. Tại huyện Mỹ Xuyên, sự chuyển đổi các mô hình canh tác trong vùng quy hoạch lúa-tôm diễn ra ngày càng nhanh, mang tính tự phát không theo quy hoạch rõ ràng của địa phương đã làm nguồn nước ngọt phục vụ cho trồng lúa bị nhiễm mặn, từ đó gây ra xung đột về việc sử dụng nguồn nước giữa hộ nuôi tôm và hộ trồng lúa, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của người dân trong vùng và cả chính quyền địa phương trong công tác quản lý (Võ Văn Hà và ctv., 2016). Bên cạnh đó, nghiên cứu của Nguyễn Trần Khánh và ctv. (2015) cho thấy nguồn nước phục vụ cho nuôi trồng thủy sản (NTTS) bị nhiễm bệnh và có dấu hiệu ô nhiễm. Chính vì thế, nghiên cứu xác định “Hiện trạng sử dụng và quản lý tài nguyên nước mặt trong sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản tại huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng” dựa trên khung đánh giá DPSIR được thực hiện nhằm: (1) đánh giá hiện trạng sử dụng nước mặt tại Mỹ Xuyên; (2) đánh giá thuận lợi, khó khăn của người dân và cán bộ địa phương trong việc sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nước mặt; từ đó (3) đánh giá công tác quản lý tài nguyên nước mặt. Vùng nghiên cứu được chọn là khu vực tại xã Tham Đôn và Ngọc Tố của huyện Mỹ Xuyên với đặc điểm có nhiều kênh thủy lợi nối liền với nhau được ngăn cách bởi các cống, đập nhằm đảm bảo đầy đủ nước tưới phục vụ cho trồng lúa-màu ở Tham Đôn và NTTS ở Ngọc Tố.

Phương pháp phỏng vấn nông hộ và cán bộ địa phương được thực hiện dựa trên khung Đánh giá Môi trường Tổng hợp DPSIR (Động lực chi phối – Áp lực - Hiện trạng - Tác động - Đáp ứng) được thực hiện nhằm: (i) xác định hiện trạng sử dụng nước mặt; (ii) phân tích thuận lợi, khó khăn mà người dân gặp phải trong việc sử dụng nước mặt cho sản xuất trong mùa khô. Kết quả nghiên cứu cho thấy tài nguyên nước mặt bị chi phối bởi sự phát triển hoạt động sản xuất nông nghiệp (trồng lúa và nuôi trồng thủy sản) đã làm thay đổi nguồn nước mặt biểu hiện qua khả năng cung cấp nước cho sản xuất giảm do ảnh hưởng của khô hạn và xâm nhập mặn vào mùa khô. Sự thay đổi tài nguyên nước mặt đã gây khó khăn cho người dân do thiếu nước ngọt phục vụ cho sản xuất, xuất hiện nhiều dịch bệnh trên cây trồng làm giảm năng suất của người dân. Do đó, địa phương đã đưa ra giải pháp hạn chế khó khăn cho người dân thông qua chính sách hỗ trợ thiệt hại trong sản xuất, sửa chữa và nâng cấp hệ thống công trình thủy lợi. Các giải pháp địa phương thực hiện được đánh giá là khá hiệu quả, đáp ứng nhu cầu và hoạt động sản xuất của người dân.

lntrang
Theo Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ - Số Môi trường 2017
In bài viết  
Bookmark
Ý kiến của bạn

Video  
 

Video

 



© Copyright 2020 Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Địa chỉ: 118/3 Trần Phú - Phường Cái Khế - Quận Ninh Kiều - thành phố Cần Thơ
Giấy phép số: 05/ GP-TTĐT, do Sở Thông tin và Truyền Thông thành phố Cần Thơ cấp ngày 23/5/2017
Trưởng Ban biên tập: Ông Vũ Minh Hải - Giám Đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Ghi rõ nguồn www.trithuckhoahoc.vn khi bạn sử dụng lại thông tin từ website này
-->