Nơi đây được biết đến là một trong những trung tâm đa dạng sinh học ở Việt Nam về kiểu rừng, thành phần loài, nguồn gen... Và đây còn là nơi cư trú của nhiều dân tộc anh em như Kinh, Hoa, Chơ ro, Khơ Me, Tày… họ thường xuyên vào rừng thu hái lâm sản để phục vụ cuộc sống hằng ngày.
Tuy nhiên, hiện nay nguồn tài nguyên thực vật cho lâm sản ngoài gỗ đã và đang bị cạn kiệt cùng với sự suy thoái của rừng do nhiều nguyên nhân khác nhau như công tác quản lý, sự gia tăng dân số, mở rộng đất canh tác nông nghiệp, khai thác gỗ và gỗ củi trái phép…
Do đó, để duy trì sự ổn định của hệ sinh thái rừng đồng thời tạo ra được thu nhập bền vững từ rừng cho người dân địa phương đang là vấn đề thời sự, đòi hỏi nhiều giải pháp đồng bộ, sự ủng hộ của cộng đồng người dân tại KBTTN. Mục tiêu nghiên cứu là xác định tính đa dạng về thành phần loài và các bậc taxon, dạng sống, bộ phận sử dụng, giá trị sử dụng và giá trị bảo tồn thực vật cho lâm sản ngoài gỗ.
Các nhà khoa học thuộc Phân hiệu Trường Đại học Lâm nghiệp đã sử dụng các phương pháp điều tra, giám định loài, phân tích đa dạng, phân nhóm giá trị sử dụng theo chuyên gia và tài liệu chuyên ngành. Kết quả nghiên cứu đã ghi nhận được 234 loài, 186 chi, 90 họ thuộc 3 ngành thực vật bậc cao có mạch là Dương xỉ (Polypodiophyta), Thông (Pinophyta) đều chiếm dưới 6% ở các bậc taxon và Ngọc lan (Magnoliophyta) đều chiếm trên 92% ở các bậc phân loại. Có 12 họ đa dạng nhất về loài đã được xác định gồm họ Cau (Arecaceae), Cúc (Asteraceae), Thầu dầu (Euphorbiaceae), Cà phê (Rubiaceae), Cam (Rutaceae), Hòa thảo (Poaceae), Dâu tằm (Moraceae), Trúc đào (Apocynaceae), Dương xỉ (Polypodiaceae), Đậu (Fabaceae), Bồ hòn (Sapindaceae), Ráy (Araceae). 11 là con số nói lên dạng sống và bộ phận của thực vật cho lâm sản ngoài gỗ được người dân khai thác để sử dụng làm lương thực thực phẩm với 110 loài, thuốc chữa bệnh với 78 loài, làm men rượu cần có 65 loài, cây cảnh bóng mát có 18 loài, dùng trong xây dựng có 18 loài và dùng trong sinh hoạt hằng ngày với 12 loài. Có 12 loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm cần ưu tiên bảo tồn, trong đó 9 loài trong Sách đỏ Việt Nam (2007), 4 loài trong nhóm IIA của Nghị định 32/NĐ-CP/2006 và 7 loài trong Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam (2006). Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở cho Khu Bảo tồn thiên nhiên quản lý, sử dụng bền vững tài nguyên thực vật cho lâm sản ngoài gỗ tại khu vực nghiên cứu.
|