Cá trê lai mang những đặc điểm trung gian của hai loài bố mẹ được người nuôi ưa chuộng. Đó là sự tăng trưởng nhanh và khả năng kháng bệnh cao tương tự cá trê phi, màu sắc khi còn nhỏ (dưới 400 g) tương tự với màu sắc cá trê vàng, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Ngoài ra, chúng có khả năng sống trong điều kiện nước có hàm lượng oxy thấp nên có thể nuôi với mật độ cao và chúng có tính ăn tạp nên sử dụng được nhiều nguồn thức ăn sẵn có.
Mặc dù là đối tượng nuôi lâu ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), song hiện trạng kỹ thuật và hiệu quả tài chính nghề nuôi chưa được đánh giá đầy đủ. Nghiên cứu trước đây của Trương Thị Lệ Thảo và Lê Xuân Sinh (2010) chỉ mới tìm hiểu hiện trạng kỹ thuật và những thuận lợi, khó khăn của nghề nuôi cá trê lai ở thành phố Cần Thơ. Nghiên cứu đã phân tích ra một số yếu tố ảnh hưởng đến năng suất nuôi nhưng chưa chỉ ra yếu tố nào có tính quyết định. Hơn nữa, mỗi địa phương có thể áp dụng những điểm kỹ thuật trong nuôi khác nhau và đạt hiệu quả tài chính khác nhau.
Nghiên cứu được Nguyễn Văn Cầu và Dương Thúy Yên Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ thực hiện nhằm đánh giá những yếu tố kỹ thuật và tài chính ảnh hưởng đến năng suất nuôi và lợi nhuận của mô hình nuôi cá trê lai ở ĐBSCL, góp phần bổ sung những thông tin chưa đầy đủ từ nghiên cứu trước để làm cơ sở cho quản lý và phát triển nghề nuôi.
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 8 – 12 năm 2015, thông qua phỏng vấn 150 hộ nuôi cá trê lai ở năm tỉnh: An Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ và Hậu Giang. Cá được nuôi với qui mô nhỏ, diện tích nuôi trung bình là 1.106±1.130 m2. Mật độ thả trung bình là 58±21 con/m2. Tỷ lệ sống sau 3- 4 tháng nuôi đạt 83,4±5,9% và năng suất đạt 140,7±44,0 tấn/ha/vụ. Kết quả phân tích đa biến và đơn biến cho thấy năng suất nuôi chịu ảnh hưởng (p<0,05) bởi các yếu tố mật độ thả, cỡ cá thu hoạch, kích cỡ cá giống, hệ số thức ăn (FCR) và tỷ lệ sống, trong đó mật độ có ảnh hưởng lớn nhất, giải thích 46% biến động của năng suất. Chi phí nuôi trung bình 2.702±889 triệu đồng/ha/vụ, với lợi nhuận 370±13 triệu đồng/ha/vụ và tỷ suất lợi nhuận là 14,16±8,29%. Các yếu tố chính ảnh hưởng đến lợi nhuận theo thứ tự quan trọng gồm năng suất, giá cá bán, kích cỡ cá bán và giá thức ăn. Các yếu tố kỹ thuật và hiệu quả tài chính của mô hình nuôi cá trê lai khác nhau giữa các tỉnh khảo sát. |