Nông - Lâm - Ngư nghiệp
[ Đăng ngày (23/03/2017) ]
|
Đánh giá khả năng gây bệnh của các chủng vi khuẩn Ralstonia solanacearum và bước đầu khảo sát ảnh hưởng của các gốc ghép ớt đến khả năng chống chịu bệnh héo vi khuẩn trên ớt sừng trong điều kiện nhà lưới
|
|
Ớt cay (Capsicum annuum L.) thuộc họ Cà gồm cà chua, cà xanh, cà tím, cà pháo (Solanaceae), chứa nhiều Vitamin A, C và E (Pickersgill, 1997). Ớt là một loại rau gia vị được sử dụng ở dạng tươi, khô hoặc chế biến thành bột ớt, dầu, nước xốt (ketchup), muối chua, cây cảnh,...
|
Diện tích ớt ngày càng gia tăng, nhưng năng suất liên tục giảm trong những năm nhiều đây do người dân thiếu áp dụng khoa học kỹ thuật, thâm canh trên một nền đất trong thời gian dài dẫn đến dịch bệnh nghiêm trọng, trong đó bệnh héo xanh do vi khuẩn R. solanacearum gây ra là quan trọng và khó phòng trị nhất.
Vấn đề đặt ra là cần tìm được giải pháp hiệu quả để canh tác ớt cay có thể giảm thiểu tác hại do bệnh héo xanh gây ra. Chính vì thế, đề tài “Đánh giá khả năng gây bệnh của các chủng vi khuẩn R. solanacearum và bước đầu khảo sát ảnh hưởng của các loại gốc ghép ớt đến khả năng kháng bệnh héo rũ trên trên ớt sừng vàng trong điều kiện nhà lưới” được các nhà khoa học ĐH Cần Thơ thực hiện nhằm mục đích chọn ra chủng vi khuẩn R. solanacearum phân lập từ một số tỉnh thuộc ĐBSCL có khả năng gây hại cao trong điều kiện nhà lưới để làm nguồn vật liệu cho nghiên cứu tìm ra loại gốc ghép giúp cây ớt sừng tăng khả năng kháng bệnh héo xanh do vi khuẩn R. solanacearum.
Đề tài được thực hiện nhằm mục tiêu (i) chọn ra chủng vi khuẩn Ralstonia solanacearum có khả năng gây hại cao và (ii) đánh giá khả năng chống chịu bệnh héo xanh vi khuẩn của giống ớt sừng vàng Châu Phi được ghép trên gốc ghép ớt khác nhau trong điều kiện nhà lưới. Kết quả phân lập được 6 chủng vi khuẩn Ralstonia solanaceraum phân bố tại các tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp và Kiên Giang. So sánh khả năng gây hại của các chủng vi khuẩn Ralstonia solanaceraum trong điều kiện nhà lưới bằng phướng pháp tưới huyền phù vi khuẩn (4x1010cfu/ml) vào đất giai đoạn cây có 4 - 5 lá thật (22 ngày sau khi gieo), 5 ml/cây. Kết quả cho thấy, 6 chủng vi khuẩn được sử dụng đều có khả năng gây bệnh héo xanh do vi khuẩn bắt đầu từ 12 ngày sau khi lây bệnh nhân tạo. Thời điểm 32 ngày sau khi lây bệnh, 6 chủng vi khuẩn đều gây hại trên giống ớt sừng vàng Châu phi, trong đó 2 chủng vi khuẩn phân lập ở Thanh Bình - Đồng Tháp gồm Rs1 (Tân Bình) và Rs2 (Tân Quới) có tỉ lệ bệnh (93,79% và 95,78%) và cấp bệnh (2,32 - 2,50) cao hơn so với các chủng còn lại, trong khi đó đối chứng - không chủng bệnh hoàn toàn không có bệnh, vì vậy 2 chủng vi khuẩn này được sử dụng để tiếp tục nghiên cứu đánh giá khả năng kháng bệnh héo xanh vi khuẩn trên cây ớt sừng ghép gốc. Thời điểm 40 ngày sau khi lây bệnh, các gốc ớt ghép TN592, TN557 và hiểm 27 (2,50%) cho kết quả kháng bệnh tốt hơn với tỉ lệ bệnh trong khoảng 0,00 - 7,15% và cấp bệnh dao động từ 0,00 - 0,83, thấp hơn có khác biệt so với đối chứng - không ghép (tỉ lệ bệnh 54,18% và cấp bệnh 1,77). |
ntbtra
Theo Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ (Số chuyên đề Nông nghiệp -2016) |