Ảnh minh họa
Nghiên cứu này được các nhà khoa học ĐH Cần Thơ thực hiện từ tháng 1-12/2012 thông qua việc phỏng vấn 6 công ty (CT) sản xuất giống tôm sú, 16 hộ ương vèo, 24 đại lý thức ăn, thuốc và hóa chất, 91 cơ sở nuôi, 12 cơ sở thu mua và 9 doanh nghiệp chế biến thủy sản tại 3 tỉnh Kiên Giang, Sóc Trăng và Bến Tre. Kết quả nhiên cứu cho thấy mức độ liên kết trong nuôi tôm sú thâm canh hiện nay chưa chặt chẽ chủ yếu thông qua trao đổi thông tin. Các nhân tố đầu vào và đầu ra (giống, thức ăn, thuốc và cơ sở thu mua) trong chuỗi liên kết với người nuôi dưới hình thức cung ứng và bao tiêu theo giá thị trường. Diện tích bình quân ở hình thức nông hộ-NH (1,36 ha) thấp hơn đáng kể so với các hình thức khác (29,04-45,28 ha), diện tích trung bình ao nuôi khác biệt không đáng kể (0,45- 0,59 ha/ao) nhưng độ sâu mức nước cao nhất ở hình thức trang trại-TT (1,52 m). Mật độ thả nuôi ở hình thức NH (33,12 con/m2), TT (31,57 con/m2) và tổ hợp tác-THT (36,25 con/m2) cao hơn hình thức CT (26,88 con/m2), tỷ lệ sống và năng suất cao nhất ở hình thức TT và CT lần lượt là 70,57%, 6,52 tấn/ha/vụ và 74,5%, 6 tấn/ha/vụ. Chi phí đầu tư từ 346,9-391,8 tr.đ/ha/vụ, giá thành sản xuất cao nhất ở hình thức NH (76,1 ngàn đồng/kg). Lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận cao nhất ở hình thức TT (374,7 tr.đ/ha/vụ, 50,8%), CT (346,8 tr.đ/ha/vụ, 56,7%) và tỷ lệ hộ lời thấp ở hình thức NH (83,7%). Nghiên cứu cho thấy hình thức NH có mức rủi ro cao nhất và kém bền vững hơn so với các hình thức còn lại. |