Nông - Lâm - Ngư nghiệp [ Đăng ngày (05/07/2014) ]
Xây dựng mô hình ước tính sinh khối, các bon tích lũy trong cây rừng tự nhiên lá rộng thường xanh tại huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam
Sự gia tăng lượng C02 trong khí quyển và hệ quả của nó là biến đổi khí hậu đã trở thành vấn đề thời sự và mang tính toàn cầu, đòi hỏi sự ứng phó của mọi quốc gia, của các nhà khoa học. Nghiên cứu về sinh khối thực vật, rừng và khả năng hấp thụ C02 của chúng nhằm đưa ra các giải pháp hạn chế xu hướng biến đổi khí hậu là một trong những giải pháp hiệu quả, chi phí thấp nhất, có thể nói là khả thi trong giai đoạn hiện nay.

Ảnh minh họa

Việc định lượng khả năng hấp thụ C02 của rừng tự nhiên nhiệt đới với sự phong phú về loài, dạng sống... là vấn đề khá phức tạp nhưng có thể thực hiện được trên cơ sở khoa học với độ chính xác cho phép.

Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu với nguồn dữ liệu khá phong phú, các hàm tương quan đã được thiết lập và đưọc khuyến cáo có thể áp dụng cho các kiểu rừng trên thế giới, song dữ liệu được lấy từ Việt Nam rất hạn chế và các hàm tương quan này chưa được kiểm chứng, đánh giá sai số và độ tin cậy ở Việt Nam để có thể áp dụng.

Từ tình hình trên, Chi cục Lâm Nghiệp Quảng Nam đã thực hiện nghiên cứu này nhằm mục đích xây dựng mô hình ước tính sinh khối, các bon tích lũy trong cây rừng để áp dụng trực tiếp cho kiểu rừng tự nhiên lá rộng ở huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam.

Mục đích nghiên cứu nhằm góp phần ứng dụng và phát triển phương pháp ước lượng và dự báo năng lực hấp thụ các bon của rùng tự nhiên lá rộng thường xanh; kết quả cũng đóng góp về kỹ thuật cho việc triển khai chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng và triển khai chương trình REDD. Kết quả nghiên cứu đã xây dựng các phương trình 1 đến 3 biến, quan hệ giữa sinh khối của cây cá thể với các nhân tố điều tra như DBH, Hvn và WD (khối lượng thể tích gỗ g/cm3) đều cho hệ số R2 điều chỉnh nằm trong giới hạn biểu hiện quan hệ chặt đến rất chặt; trong đó phương trình quan hệ 3 biến là tốt hơn so với 2 và 1 biến; kiểm định giả thuyết thống kê các giá trị Sig.F, Sig.Ta, Sig.Tb, Sig.Tc đều có p < 0,05; các tiêu chí AIC (Akaike’s Information Criteria - Tiêu chuẩn thông tin Akaike), CF (Correction Factor - thừa số hiệu chỉnh), S% (sai số giữa Yi  lý thuyết và Yt thực tế (kiểm tra)) cũng được sử dụng để lựa chọn hàm tối ưu. Ứng dụng các phương trình tối ưu này để ước tính sinh khối và các bon của một số trạng thái rừng; nghiên cứu cho thấy, lượng C02 hấp thụ của phần cây gỗ trên mặt đất của rừng giàu, rừng trung bình và rừng nghèo lần lượt là 277,59 tấn/ha, 179,58 tấn/ha và 73,69 tấn/ha. Cấu trúc tỷ lệ lượng C02 hấp thụ theo từng bộ phận cây gỗ trên mặt đất sắp xếp từ cao đến thấp là thân, cành, vỏ và lá với các tỷ lệ tương ứng là 79,38%, 13,44%, 7,179% và 0,019%.

ntbtra
Theo Tạp chí NN & PTNT (số 6, 2014)
In bài viết  
Bookmark
Ý kiến của bạn

Video  
 

Video

 



© Copyright 2020 Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Địa chỉ: 118/3 Trần Phú - Phường Cái Khế - thành phố Cần Thơ
Giấy phép số: 05/ GP-TTĐT, do Sở Thông tin và Truyền Thông thành phố Cần Thơ cấp ngày 23/5/2017
Trưởng Ban biên tập: Ông Vũ Minh Hải - Giám Đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Ghi rõ nguồn www.trithuckhoahoc.vn khi bạn sử dụng lại thông tin từ website này
-->