Ảnh minh họa
Để xử lý nước, quy trình kết tụ sinh học được đề nghị áp dụng vì kết tụ là công đoạn ban đầu cần thiết, giúp loại bỏ các tạp chất, tạo thuận lợi cho các công đoạn xử lý sau với ưu điểm là đầu tư cơ sở hạ tầng ít, thời gian xử lý ngắn và chất kết tụ sinh học tiết ra từ vi sinh vật dễ phát triển đạt sinh khối cao, ít tốn kém, có thể bị phân hủy bằng con đường sinh học nên không gây hại cho người và sinh vật khác, không gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, hiệu quả kết tụ phụ thuộc vào đặc tính của từng giống, loài vi sinh vật tạo chất kết tụ cũng như chịu ảnh hưởng của các yếu tố như chất dinh dưỡng, điều kiện nuôi cấy, điều kiện của môi trường…
Vì vậy, cần thiết phải xác định được các điều kiện tốt nhất đối với các dòng vi khuẩn đã tuyển chọn để kết tụ đạt tỷ lệ cao nhất; từ đó chọn được một số dòng vi khuẩn hiệu quả. Các nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ Sinh học, Đại học Cần Thơ bước đầu ứng dụng vào xử lý nước ao nuôi cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long ở quy mô phòng thí nghiệm.
Từ các dòng (chủng) vi khuẩn tạo chất kết tụ sinh học trên môi trường polysacarit phân lập từ bùn đáy ao nuôi cá tra ở 10 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, 3 dòng vi khuẩn có tỷ lệ kết tụ cao hơn 70% được chọn để khảo sát những yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ kết tụ. Tỷ lệ kết tụ sinh học cao nhất được ghi nhận ở pH tối ưu là 6 với sự hiện diện của NaCl, Sucroza, axit glutamic, CaCl2 được sử dụng như nguồn các bon, ni tơ và khoáng vô cơ tốt nhất với các dòng vi khuẩn này. Ngoài ra liều lượng sử dụng để cho tỷ lệ kết tụ cao nhất đối với các dòng khảo sát đều thấp, chỉ 0,11% - 0,12%. Sau khi được tối ưu hóa, tỷ lệ kết tụ cao nhất của dòng vi khuẩn được tuyển chọn Agrobacterium tumefaciens STT37PS đạt được trong huyền phù cao lanh là 80,33% - 81,20% và 52,14%-53,26% trong nước ao nuôi cá tra. Khi ứng dụng vào xử lý nước ao nuôi cá tra ở quy mô phòng thí nghiệm, dòng vi khuẩn này đã làm giảm lượng TSS và COD trong nước ao lần lượt là 49,00%-65,29% và 40,91%-67,35% so với đối chứng. |