Nông - Lâm - Ngư nghiệp [ Đăng ngày (23/09/2013) ]
Thực trạng về giống, thức ăn, chế độ nuôi dưỡng và năng suất sinh sản của lợn nái nuôi trong điều kiện trang trại và nông hộ ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam
Nghiên cứu do nhóm tác giả thuộc Bộ môn Dinh dưỡng và Thức ăn chăn nuôi, Viện Chăn nuôi thực hiện nhằm khảo sát thực trạng về giống, thức ăn, chế độ nuôi dưỡng đối với lợn sinh sản, tập trung chủ yếu vào đối tượng lơn cái hậu bị và lợn nái sinh sản được nuôi trong các trang trại và hộ nông dân ở một số tỉnh miền Bắc.

Ảnh minh họa

Chất lượng đàn giống, chế độ chăm sóc đàn lợn nái sinh sản được coi là những yếu tố then chốt, ảnh hưởng quyết định đến năng suất của đàn lợn thịt.

Đề tài được thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp theo bộ câu hỏi được thiết kế trong phiếu điều tra, kết hợp với thăm trại chăn nuôi, tiếp cận sổ sách ghi chép và quan sát đàn lợn tại chuồng. Các loại thức ăn cho lợn sinh sản được lấy từ mẫu đại diện tại các cơ sở điều tra để xác định thành phần hóa học (độ ẩm, protein thô, xơ thô và khoáng tổng số).

Kết quả điều tra cho thấy, loại hình chăn nuôi lợn sinh sản ở cả hai hệ thống chăn nuôi (nông hộ và trang trại) là mô hình chăn nuôi lợn nái tự túc giống để nuôi thịt (50-54%). Người chăn nuôi chỉ bán lợn con giống khi sản xuất dư thừa và nhu cầu thị trường cao.

Giống lợn nái sinh sản được nuôi nhiều ở cả hai loại hình thức (nông hộ và trang trại) là lợn lai giữa hai giống (Landrace và Yorkshire( 47,6 – 88%). Ở hệ thống chăn nuôi nông hộ, vẫn còn tỷ lệ nhất định (22,4%) các hộ chăn nuôi không biết rõ nguồn gốc giống lợn sinh sản mà mình đang nuôi.

Ở hệ thống chăn nuôi trang trại, 100% cơ sở được điều tra đều sử dụng thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh để nuôi lợn nái sinh sản, có 26,9% số trang trại tự sản xuất thức ăn mà không phụ thuộc vào thức ăn thương mại. Ở hệ thống chăn nuôi nông hộ, ngoài thức ăn thương mại là nguồn chủ lực, các nguồn thức ăn khác như một số nguyên liệu sẵn có (ngô, cám gạo, tấm,… ) và phụ phẩm nhà bếp và thức ăn thô xanh cũng được sử dụng để nuôi lợn nái sinh sản.

Tất cả các hộ nông dân và trang trại được điều tra đều nuôi lợn cái hậu bị bằng thức ăn hỗn hợp dùng cho lợn nuôi thịt. Chất lượng thức ăn cho lợn cái hậu bị tại thời điểm điều tra, xét về mức protein thô trong khẩu phần, nhìn chung cao hơn so với mức khuyến cáo của NRC. Tuy nhiên, hàm lượng protein trong thức ăn cho lợn nái chửa và nuôi con đều ở trong giới hạn khuyến cáo của NRC.

Phương thức chăn nuôi lợn sinh sản (cái hậu bị, nái chửa, nái nuôi con) ở hệ thống chăn nuôi nông hộ mang tính tùy tiện cao, phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh kinh tế. Tuy nhiên, ở hệ thống chăn nuôi trang trại, lợn nái sinh sản được nuôi dưỡng đúng kỹ thuật.

Năng suất sinh sản của lợn nái (số lứa đẻ/nái/năm, số con cai sữa/nái/năm) ở hệ thống chăn nuôi trang trại cao hơn so với hệ thống chăn nuôi nông hộ.

Thien Trang
Theo Tạp chí NN&PTNT, 15/2013
In bài viết  
Bookmark
Ý kiến của bạn

Video  
 

Video

 



© Copyright 2020 Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Địa chỉ: 118/3 Trần Phú - Phường Cái Khế - thành phố Cần Thơ
Giấy phép số: 05/ GP-TTĐT, do Sở Thông tin và Truyền Thông thành phố Cần Thơ cấp ngày 23/5/2017
Trưởng Ban biên tập: Ông Vũ Minh Hải - Giám Đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Ghi rõ nguồn www.trithuckhoahoc.vn khi bạn sử dụng lại thông tin từ website này
-->