Nghiên cứu được các tác giả Mai Thị Hạnh Phúc, Phan Thị Hồng Hải, Phạm Thị Hà Vân, Nguyễn Phạm Trúc Phương và Nguyễn Thoại Ân (Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao, Ban Quản lý Khu Nông nghiệp Công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh) thực hiện nhằm khảo sát một số đặc điểm sinh học của 3 chủng nấm linh chi (V01.10, T03.17, T03.02) được phân lập từ tự nhiên.
Ảnh minh họa: Internet
Chủng nấm V01.10 được phân lập tại Khu bảo tồn Bình Châu Phước Bửu, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu Chủng nấm T03.02, T03.17 được phân lập tại Vườn quốc gia Lò Gò, Xa Mát, tỉnh Tây Ninh. Kết quả định danh hình thái cho kết quả chủng V01.10 là loài Ganoderma resinaceum; T03.02 là loài Ganoderma sp2; T03.17 là loài Ganoderma fulvellum. Các chủng nấm sau khi thu từ tự nhiên được phân lập trong phòng thí nghiệm và giữ giống trên môi trường thạch nghiêng ở 4 °C.
Kết quả cho thấy, các chủng nấm có thời gian từ khi cấy đến thu hoạch là khác nhau, trong khoảng 76,5-81,4 ngày. Năng suất nấm khô thu được của các chủng nấm khác nhau là khác nhau và khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các chủng nấm (P < 0,05). Chủng nấm V01.10 có các đặc điểm: tốc độ phủ kín tơ sau 29 ngày với tỷ lệ số bịch phôi phủ kín tơ là 83,27 ± 4,50, tỷ lệ nhiễm 16,73 ± 4,50%; năng suất đạt 15,26 ± 0,37g khô/phôi, hiệu suất sinh học là 6,32 ± 0,10%; hàm lượng beta glucan (21,32 ± 0,90 %), adenosine (68,06 ± 0,77 mg/kg), ganoderic acid A (0,074 ± 0,005 mg/g), triterpenoid (0,70 ± 0,05 mg/g), alcaloid (2,14 ± 0,79 mg/g) và ergosterol (2,14 ± 0,14 mg/g). Từ các kết quả trên cho thấy chủng nấm V01.10 có nhiều tiềm năng ứng dụng trong nuôi trồng thương mại đồng thời góp phần làm phong phú thị trường nấm linh chi hiện nay. |